Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Bệnh mù bẩm sinh do đột biến gen lặn nằm trên NST thường gây ra nên 2 người con gái bị bệnh sẽ có kiểu gen aa. 2 người này nhận giao tử a từ cả bố và mẹ
- Mặt khác, bố mẹ có kiểu hình bình thường nên P sẽ là: Aa x Aa
- Người con trai không bị bệnh có kiểu gen AA hoặc Aa
- Vì đề bài không cho kiểu gen của người vợ anh con trai nên ta cần chia trường hợp:
+ TH1: anh con trai có kiểu gen AA (chiếm tỉ lệ 1/3 trong phép lai P: Aa x Aa). Vì kiểu gen của anh này luôn cho giao tử A nên dù người vợ có kiểu gen gì đi chăng nữa thì đứa con sinh ra cũng không bị bệnh.
=> xác suất đứa con sinh ra bị bệnh là: 1/3 x 0 = 0.
+ TH2: anh con trai có kiểu gen Aa (chiếm tỉ lệ 2/3 trong phép lai P: Aa x Aa).
*Người vợ có kiểu gen AA: luôn cho giao tử A nên con sinh ra cũng không bị bệnh
=> xác suất con sinh ra mắc bệnh là: 2/3 x 0 = 0.
*Người vợ có kiểu gen Aa: xác suất con sinh ra mắc bệnh là: 2/3 x 1/4 = 1/6.
*Người vợ có kiểu gen aa: xác suất con sinh ra mắc bệnh là: 2/3 x 1/2 = 1/3.
Bệnh mù màu là do đột biến gen lặn trên nst X ko có alen tương ướng trên Y mà. p làm như vậy mình ko hiểu. giải thích hộ mình với
- Mẹ không thể cho hay nhận máu của bố -> mẹ máu B
- Con trai có thể nhận máu của bố và mẹ ( A,B ) => con trái máu AB
- Con gái có thể cho máuv3 người => con gái máu O
#Tham khảo
Nhóm máu A: Đặc trưng bởi sự hiện diện cho nhóm máu A là kháng nguyên A trên các tế bào hồng cầu và kháng thể B có trong huyết tương. Những người mang nhóm máu A có thể hiến máu cho những người có cùng nhóm máu hoặc mang nhóm máu AB. Những người nhóm máu A có thể được truyền máu bởi những người có nhóm máu O.Nhóm máu B: Có thể hiến máu cho những người khác có cùng nhóm máu B hoặc những người mang nhóm máu AB. Những người mang nhóm máu B có thể nhận máu từ những người mang nhóm máu O.Nhóm máu AB: Có thể nhận máu từ bất cứ nhóm máu nào. Tuy nhiên, những người mang nhóm máu AB cũng chỉ có thể hiến cho những người có cùng nhóm máu AB. Nhóm máu này không phổ biến.Nhóm máu O: Đây là nhóm máu phổ biến nhất. Những người mang nhóm máu O chỉ nhận máu từ những người có cùng nhóm máu O và có thể hiến máu cho tất cả những nhóm máu khác bởi nhóm máu O không có kháng nguyên A và kháng nguyên B trên tế bào hồng cầu, nhưng trong huyết tương lại có cả kháng thể A và kháng thể BTham khảo
- Mẹ không thể cho hay nhận máu của bố -> mẹ máu B
- Con trai có thể nhận máu của bố và mẹ ( A,B ) => con trái máu AB
- Con gái có thể cho máu 3 người => con gái máu O
Tham khảo:
Nhóm máu A: Đặc trưng bởi sự hiện diện cho nhóm máu A là kháng nguyên A trên các tế bào hồng cầu và kháng thể B có trong huyết tương. Những người mang nhóm máu A có thể hiến máu cho những người có cùng nhóm máu hoặc mang nhóm máu AB. Những người nhóm máu A có thể được truyền máu bởi những người có nhóm máu O.Nhóm máu B: Có thể hiến máu cho những người khác có cùng nhóm máu B hoặc những người mang nhóm máu AB. Những người mang nhóm máu B có thể nhận máu từ những người mang nhóm máu O.Nhóm máu AB: Có thể nhận máu từ bất cứ nhóm máu nào. Tuy nhiên, những người mang nhóm máu AB cũng chỉ có thể hiến cho những người có cùng nhóm máu AB. Nhóm máu này không phổ biến.Nhóm máu O: Đây là nhóm máu phổ biến nhất. Những người mang nhóm máu O chỉ nhận máu từ những người có cùng nhóm máu O và có thể hiến máu cho tất cả những nhóm máu khác bởi nhóm máu O không có kháng nguyên A và kháng nguyên B trên tế bào hồng cầu, nhưng trong huyết tương lại có cả kháng thể A và kháng thể B
a, Trong gia đình, người có thể cho máu là người bố vì nhóm máu A tương thích với nhóm máu O và có thể truyền được.
b, Người bố có nhóm máu O chỉ có thể nhận truyền máu từ những người trong họ có cùng nhóm máu O, vì các kháng thể trong huyết tương của nó sẽ tấn công các loại khác.
a) Người bố không thể truyền máu cho con trai vì nhóm máu O chỉ có thể nhận của nhóm máu O . b) người con trai có thể truyền máu cho bố vì nhóm máu A có thể được truyền máu bởi những người có nhóm máu O.
a) Tài nguyên rừng
- Suy giảm tài nguyên rừng: năm 1943, độ che phủ rừng ở nước ta là 43,09% và giảm xuống còn 22,0% vào năm 1983, sau đó tăng lên 38,09% (năm 2005). Mặc dù tổng diện tích rừng đang lăng dần lên, nhưng tài nguyên rừng vẫn bị suy thoái vì chất lượng rừng chưa thể phục hồi (70% diện tích rừng là rừng nghèo và rừng mới phục hồi).
- Biện pháp bảo vệ tài nguyên rừng:
+ Theo quy hoạch, phải nâng độ che phủ rừng của cả nước hiện lại từ gần 40% lên đến 45 - 50%, vùng núi dốc phải đạt độ che phủ khoảng 70 - 80%
+ Thực hiện những quy định về nguyên tắc quản lí, sử dụng và phát triển đối với 3 loại rừng:
Đối với rừng phòng hộ: có kế hoạch, biện pháp bảo vệ, nuôi dưỡng rừng hiện có, trồng rừng trên đất trống, đồi trọc.
Đối với rừng đặc dụng: bảo vệ cảnh quan, đa dạng về sinh vật của các vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên.
Đối với rừng sản xuất đảm bảo duy trì phát triển diện tích và chất lượng rừng, duy trì và phát triển hoàn cảnh rừng, độ phì và chất lượng đât rừng.
+ Giao quyền sử dụng đất và bảo vệ rừng cho người dân.
b) Đa dạng sinh học
- Sự suy giảm tính đa dạng sinh học của nước ta biểu hiện ở các mặt: suy giảm số lượng, thành phần loài, kiểu hệ sinh thái và nguồn gen
+ Suy giảm diện tích và chất lượng rừng: rừng nguyên sinh bị phá hoại, diện tích rừng giảm, rừng giàu bị thu hẹp, còn lại chủ yếu là rừng thứ sinh, rừng mới phục hồi, độ che phủ rừng còn thấp
+ Suy giảm đáng kể số lượng các loài động vật hoang dã và nguồn gen động thực vật quý hiếm.
+ Nhiều loài mất dần, nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng (gồm khoảng 100 loài thực vật, 62 loài thú, 29 loài chim).
+ Nguồn tài nguyên sinh vật dưới nước, đặc biệt nguồn hải sản của nước ta cũng bị suy giảm rõ rệt.
Câu 1:
Tham khảo:
- Để lao động có năng suất cao cần làm việc nhịp nhàng, vừa sức đảm bảo khối lượng và nhịp co cơ thích hợp. ... - Khi mỏi cơ cần được nghỉ ngơi, thở sâu kết hợp với xoa bóp cho máu lưu thông nhanh. Sau hoạt động chạy (khi tham gia thể thao) nên đi bộ từ từ đến khi hô hấp trở lại bình thường mới nghỉ ngơi và xoa bóp.
Một nghiên cứu về những cây gia hệ hàng trăm năm cho thấy gen của một người đàn ông đóng vai trò trong việc anh ta có con trai hay con gái. Đàn ông thừa hưởng xu hướng sinh nhiều con trai hoặc nhiều con gái từ bố mẹ. Điều này có nghĩa là một người đàn ông có nhiều anh em có nhiều khả năng sinh con trai, trong khi một người đàn ông có nhiều chị em có nhiều khả năng có con gái.
Ảnh: Một sơ đồ đơn giản hóa trong đó đàn ông hoặc chỉ có con trai, hoặc chỉ có con gái, hoặc có số con trai và con gái bằng nhau, mặc dù trong thực tế điều này ít rõ ràng hơn.
Một nghiên cứu của Đại học Newcastle liên quan đến hàng ngàn gia đình đang giúp các bậc cha mẹ tương lai tìm ra liệu khả năng sinh con trai nhiều hay sinh con gái nhiều.
Nghiên cứu này quan sát 927 cây gia hệ có chứa thông tin về 556.387 người từ Bắc Mỹ và Châu Âu từ 1600 đến nay.
"Nghiên cứu về cây gia hệ cho thấy bạn có khả năng sinh con trai hay con gái. Bây giờ chúng tôi biết rằng đàn ông có nhiều con trai hơn nếu họ có nhiều anh em nhưng có nhiều con gái hơn nếu có nhiều chị em gái Tuy nhiên, ở phụ nữ, bạn không thể dự đoán được điều đó", ông Gellatly giải thích.
Đàn ông xác định giới tính của em bé tùy thuộc vào việc tinh trùng của họ mang nhiễm sắc thể X hay Y. Một nhiễm sắc thể X kết hợp với nhiễm sắc thể mẹ X để tạo ra một bé gái (XX) và nhiễm sắc thể Y sẽ kết hợp với nhiễm sắc thể mẹ để tạo ra một bé trai (XY).
Nghiên cứu của Đại học Newcastle cho thấy một gen chưa được phát hiện kiểm soát xem tinh trùng người đàn ông có chứa nhiều nhiễm sắc thể X hoặc nhiều Y hay không, ảnh hưởng đến giới tính của con cái họ. Ở quy mô lớn hơn, số lượng nam giới có nhiều tinh trùng X so với số lượng nam giới có nhiều tinh trùng Y ảnh hưởng đến tỷ lệ giới tính của trẻ em sinh ra mỗi năm.
Con trai hay con gái?
Một gen bao gồm hai phần, được gọi là alen, một gen được di truyền từ mỗi bố mẹ. Trong bài báo của mình, ông Gellatly chứng minh rằng có khả năng đàn ông mang hai loại alen khác nhau, dẫn đến ba sự kết hợp có thể có trong một gen kiểm soát tỷ lệ tinh trùng X và Y;
(1) Đàn ông với sự kết hợp đầu tiên, được gọi là mm, tạo ra nhiều tinh trùng Y hơn và có nhiều con trai hơn.
(2) Loại thứ hai, được gọi là mf, tạo ra số lượng tinh trùng X và Y gần bằng nhau và có số lượng con trai và con gái xấp xỉ nhau.
(3) Thứ ba, được gọi là ff sản xuất nhiều tinh trùng X và có nhiều con gái hơn.
Các gen được truyền từ cả cha và mẹ, khiến một số đàn ông có nhiều con trai và một số có nhiều con gái hơn, có thể giải thích tại sao chúng ta thấy số lượng đàn ông và phụ nữ cân bằng trong dân số. Ví dụ, nếu có quá nhiều nam giới, nữ giới sẽ dễ dàng tìm thấy bạn đời hơn, vì vậy những người đàn ông có nhiều con gái sẽ truyền nhiều gen hơn, khiến nhiều phụ nữ được sinh ra ở các thế hệ sau, Ông Gellatly, nhà nghiên cứu của Đại học Newcastle cho biết.
Nhiều bé trai chào đời sau chiến tranh.
Ở nhiều quốc gia đã chiến đấu trong Thế chiến, số lượng bé trai được sinh ra sau đó tăng đột ngột. Một năm sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc, cứ 100 bé gái ở Anh thì có thêm hai bé trai được sinh ra, so với năm trước khi chiến tranh bắt đầu. Loại gen mà ông Gellatly đã mô tả trong nghiên cứu của mình có thể giải thích tại sao điều này xảy ra.
Vì tỷ lệ nghiêng về những người đàn ông có nhiều con trai, những người này thường có con trai trở về sau chiến tranh, những người con trai đó có nhiều khả năng sẽ đẻ ra nhiều con trai vì họ thừa hưởng xu hướng đó từ cha của họ. Ngược lại, những người đàn ông có nhiều con gái hơn có thể đã mất con trai duy nhất của họ trong cuộc chiến và những người con trai đó sẽ có nhiều khả năng làm cha của các cô gái. Điều này sẽ giải thích tại sao những người đàn ông sống sót sau chiến tranh có nhiều khả năng có con trai, dẫn đến sự bùng nổ của con trai.
Ở hầu hết các quốc gia, miễn là hồ sơ được lưu giữ, nhiều bé trai hơn bé gái đã được sinh ra. Ví dụ, ở Anh và Mỹ, hiện có khoảng 105 nam giới sinh ra trên mỗi 100 nữ.
Một tài liệu rõ ràng rằng nhiều đàn ông chết trong thời thơ ấu và trước khi họ đủ tuổi để có con. Vì vậy, theo cùng một cách mà gen có thể khiến nhiều bé trai được sinh ra sau chiến tranh, nó cũng có thể khiến nhiều bé trai được sinh ra mỗi năm.
Gen làm việc như thế nào?
Các cây (ở trên hình) minh họa cách thức hoạt động của gen. Đó là một ví dụ đơn giản, trong đó đàn ông hoặc chỉ có con trai, chỉ có con gái hoặc số lượng bằng nhau của mỗi giới, mặc dù trong thực tế điều này ít rõ ràng hơn. Nó cho thấy rằng mặc dù gen không có tác dụng ở nữ giới, nhưng họ cũng mang gen này và truyền nó cho con cái của họ.
Trong cây gia hệ đầu tiên (A) ông nội là mm, vì vậy tất cả các con của ông đều là nam. Ông ta chỉ truyền vào alen m, vì vậy những đứa con của ông ta có nhiều khả năng có sự kết hợp mm của các alen. Kết quả là, những người con trai đó cũng có thể chỉ có con trai (như được hiển thị). Các cháu trai có sự kết hợp mf của các alen, bởi vì chúng được thừa hưởng một m từ cha của chúng và một f từ mẹ của chúng. Kết quả là, họ có số lượng con trai và con gái bằng nhau (cháu chắt).
Trong cây thứ hai (B) ông nội là ff, vì vậy tất cả các con của ông đều là nữ, chúng có sự kết hợp ff của các alen vì cha và mẹ của chúng đều là ff. Một trong những đứa trẻ nữ có con riêng với một người đàn ông có tổ hợp alen mm. Người đàn ông đó xác định giới tính của con cái, vì vậy các cháu đều là nam. Các cháu trai có sự kết hợp mf của các alen, bởi vì chúng được thừa hưởng một m từ cha và f từ mẹ của chúng. Kết quả là, họ có số lượng con trai và con gái bằng nhau (cháu chắt).