Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong làng thơ Việt Nam, có những nữ sĩ để lại cho thơ ca ciàn tộc những dấu ấn đẹp. Nếu thơ Hồ Xuân Hương tài ba, ngạo mạn thì thơ bà Huyện Thanh Quan lại trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Đọc thơ bà, ta thấy nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ thật thanh cao đượm sự cô đơn, trống vắng. Một trong những bài thơ đó là tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà. Tìm hiểu bài thơ ta sẽ thấy tài thơ điêu luyện của Bà:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn Gác mái, ngư ông về viễn phố Gõ sừng, mục tử lại cô thôn Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
ở hai câu đề, khoảng thời gian là trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn. Ánh sáng vẫn còn dó, nhưng chỉ còn là ánh lờ mờ của ngày tàn và đêm sắp tới. Câu thơ chỉ giới thiệu thời gian mà người đọc như cảm thấy cả không gian một vùng quê rộng lớn. Trước thiên nhiên ấy, giữa trời và đất, có một cái gì đó tràn ngập con người nhạy cảm. Buổi chiều là thời gian dễ buồn nhất và đó cũng là khoảng thời gian thường xuất hiện trong thơ của bà Huyện Thanh Quan. Con người trong cuộc sống hỗn độn, ồn ào vẫn có một lúc nào đó trở về với cái bình yên muôn thuở của thiên nhiên, về với chính lòng mình. Và lúc này chính là khoảnh khắc đó của nữ sĩ.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Âm thanh từ xa vẳng đến như thúc giục, nhưng vẫn có cái trầm lặng trong đó báo hiệu cho mọi người: ngày sắp hết. Ta như gặp một nét thân quen, man mác của câu ca dao:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tâm trạng của tác giả đã phần nào được ngầm hiểu trong cách lựa chọn thời gian, không khí và thanh âm.
Trong cảnh chiều, trong tiếng gọi tàn ngày đó, con người hiện ra:
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Câu thơ với nhịp 2/5 làm cho ta có cảm giác hoạt động con người đang giảm dần, đang đi tới kết thúc. Phép đối rất chuẩn cùng với những từ Hán Việt đã góp phần tạo nên vẻ trang nhã, cổ kính của hai câu thơ gợi tả này. Trước cảnh thiên nhiên to lớn, con người thật nhỏ, yếu thế và có phần đơn độc. Đó cũng là đặc điểm của thơ Thanh Quan. Gặp cảnh và người ở đây ta không thể không liên tưởng đến cảnh và người.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Trong Qua đèo Ngang của cùng tác giả, cảnh và người đều vậy: lặng lẽ, đượm buồn. Ta có cảm giác nhà thơ cũng đang lặng lẽ, thẩn thờ. Và con đường trước mắt bà thì sao, hai câu luận đã vẽ ra khung cảnh:
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Khoảng đường trước mắt như vô tận. Chim bay mỏi mà chưa tới nơi, khách bước dồn mà chưa tới chốn. Con đường đi hay con đường đời đang dàn trải? Phép đối từng cặp hình ảnh ngàn mây dặm liễu, gió cuốn - sương sa, chim bay mỏi - khách bước dồn làm ý thêm nhấn mạnh. Những từ ngữ bước dồn, bay mỏi cho thấy tâm trạng chán chường, mỏi mệt của nhà thơ. Tâm trạng ấy tất dẫn đến hai câu thơ kết thúc:
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Không có ai để tâm sự, trời đất thì bao la, vắng lặng, trống trải, khiến tác giả quay về với nội tâm, với lòng buồn sẵn có của mình. Câu thơ cuối, vừa như một câu cảm, vừa như một câu hỏi. Ta đã từng bắt gặp những câu thơ tài ba đó trong thơ bà:
Dừng chân dứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
(Qua đèo Ngang)
Và
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Qua đó, ta càng hiểu được nỗi niềm tâm sự của tác giả. Mang tiếng nói của tầng lớp quý tộc phong kiến đang trên đường suy thoái, thơ Thanh Quan biểu hiện một khía cạnh tư tưởng của văn chương thế kỷ 18 - 19, phản ánh tâm tư của lớp nho sĩ chán nản bế tắc. Tiếng thơ đó cũng biểu hiện tâm trạng hoài cổ, thiết tha nhớ nhà Lê đã suy vi. Phải chăng đó cũng là tâm tình của tập đoàn phong kiến đã hết thời vàng son, hết vai trò lịch sử? Đặt bài thơ của nữ sĩ vào bối cảnh lịch sử như thế, ta có biểu hiện sâu thêm cái buồn trong lòng bà: cái buồn thời đại.
Thơ bà buồn, nhưng không vì thế mà mất vẻ đẹp gợi cảm. Trái lại, nhờ vậy càng tăng thêm phần đặc sắc. Thơ bà đẹp một cách trầm lặng như chính tâm hồn bà.
Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi đưa đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành, đậm đà trước nét buồn thanh tao, đưa đến những suy nghĩa sâu xa hơn về con người và xã hội. Một bài thơ đóng lại nhưng còn mở ra, tạo nên một dư âm trong lòng người đọc.
Bài làm
Chiêu Lăng là khu lãng mộ các gia tiên và vua chúa nhà Trần, có nhiều voi đá, ngựa đá. Chiêu Lăng thuộc phủ Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình. Ô Mã Nhi từng mang quân đến đào mồ mả, đập phá Chiêu Lăng. Hành động ấy của giặc vô cùng dã man, đã xúc phạm quốc thể và danh dự thiêng liêng đối với Trần Nhân Tông và hoàng tộc.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, giặc Mông cổ bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Trần Nhân Tông và triều đình đã trọng thể tổ chức lễ hiến tiệp (dâng tù binh Mông cổ có Ô Mã Phi, Phần Tiếp và nhiều tướng lĩnh cao cấp khác, bị trói và giải đến theo đúng nghi lễ và phong tục).
Sử sách cũ cho biết, tại lễ hiến tiệp ở Chiêu Lăng năm ấy, chợt nhìn thấy chân ngựa đá (thạch mã) có vết bùn, vua Trần Nhân Tông đã ứng khẩu hai câu thơ tức cảnh bằng chữ Hán:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”.
Hai câu thơ đối nhau. Ngôn từ trang trọng, trang nghiêm. Ý tưởng tráng lệ, sâu xa. Đúng là khẩu khí của một bậc đế vương anh hùng lưu danh sử sách. Câu thơ dịch cũng khá hay:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.
Xã tắc, sơn hà là những từ Hán Việt cùng nghĩa, gần nghĩa như giang sơn, sông núi, đất nước, Tổ quốc - cách nói của chúng ta ngày nay. “Lao” có nghĩa là gian lao, vất vả. “Điện” có nghĩa là vững yên, vững bền. Kim âu là âu vàng có chạm khắc rồng phượng và trang trí bằng ngọc rất đẹp; Kim âu là biểu tượng, vật tượng trưng tôn quý, linh thiêng của vương triều, của quốc gia và dân tộc. Có vị giáo sư đã dịch thành “chậu vàng”, nghĩa đen thì đúng, nhưng rất thô!
Chữ “lao” trong câu thơ chữ Hán đã nhân hóa con ngựa đá ở Chiêu Lăng. “Lưỡng hồi” là hai phen, hai bận; chỉ cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) của Đại Việt đánh thắng quân Mông Cổ xâm lược. Để làm nên chiến thắng: “Chương Dương cướp giáo giặc - Hàm Tử bắt quân thù” (Thơ Trần Quang Khải), để Tây Kết, Vạn Kiếp, Bạch Đằng... mãi mãi sáng ngời sông núi, cả nước cả dân tộc đã đứng lên với lời thề “Quyết chiến” với ý chí “Sát Thát” ngùn ngụt đất trời. Làm nên chiến thắng là nhờ vào sức mạnh đại đoàn kết dân tộc không kẻ thù nào lay chuyển nổi: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”. Để chiếnthắng quân xâm lược, vị thống soái quyết xả thân vì sơn hà, xã tắc, “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng” (Hịch tướng sĩ). Để mãi mãi trong thời gian “mà nhục quân thù khôn rửa nỗi” (Bạch Đằng giang phú), có biết bao anh hùng quyết giương cao ngọn cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân”, có hàng ngàn hàng vạn tướng sĩ đã “Múa giáo non sông trải mấy thu - Ba quân hùng khí át sao Ngưu” (Phạm Ngũ Lão). Và để làm nên trận thắng, hình như ngựa đá ở Chiêu Lăng cũng xông pha gươm giáo cùng ba quân, nếm trải nhiều gian lao khó nhọc. Câu thơ “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã” là một tứ thơ sâu sắc tuyệt hay. Câu thơ còn mang hàm nghĩa: tổ tiên ông cha linh thiêng đã ngầm giúp cháu con làm nên chiến công “bình Nguyên” lừng lẫy, bảo toàn núi sông Đại Việt.
Câu thơ thứ hai biểu lộ niềm tự hào về sự bền vững đến muôn đời của kim âu, của sơn hà xã tắc. Đó là ý chí tự cường. Đó là khát vọng độc lập, hòa bình của nhân dân ta:
“Sơn hà thiên cổ điện kim âu”.
Có thể nói hai câu của vua Trần Nhân Tông đã góp phần tỏa sáng “Hào khí Đông A”. Hơn 700 năm sau, vần thơ tráng lệ ấy vẫn còn làm xúc động lòng người.
Ai đã từng đọc "Truyện Kiều" chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:
"Sông sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng".
Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ "Cảnh chiều hôm " của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ XIX:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ "bảng lảng" có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".
Hai chữ "bảng lảng" là nhãn tự – như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:
"Trời tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)
Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.
Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao kể hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn "xa đưa vẳng" lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "
Phần thực và phần luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được chọn lựa tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách… thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có "chim bay mỏi" … Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư, tiều; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong, sương, mai, liễu, cánh chim chiều…) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.
Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố (bến xa) với tâm trạng của một "ngư ông" – ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ "gác mái" biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi:
"Gác mái, ngư ông về viễn phố".
Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại "cô thôn", cử chỉ "gõ sừng" của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời.
"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".
Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã vô cùng thân thuộc đáng yêu.
Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ vơ của người lữ khách ưên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mái xào xạc trong "gió cuốn"; gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là hai nét vẽ đăng đôi, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ”gió cuốn" và "sương sa", đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ:
"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".
Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết đưực những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế!
Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp: "Kẻ chốn
Chương Đài người lữ thứ". Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. "Chương Đài" và "lữ thứ" trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. "Ai" là đại từ phiếm chỉ, nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. "Hàn ôn” là nóng lạnh, "nỗi hàn ôn" là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết:
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
"Cảnh chiều hôm " và "Qua Đèo Ngang" hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh đô Huế nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những bút kí – thơ vô cùng độc đáo. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố…) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Cảnh chiều hôm " là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng,…
Tham khảo
Trong một năm có 4 mùa : xuân , hạ , thu, đông thì mùa tôi thích nhất chính là màu hạ . Vậy đố các bạn biết tôi thích màu hạ ở điểm nào . Để tôi nói luôn nhé , tôi thích mùa hạ vì bầu trời lúc bình minh vào buổi sáng. Vào mỗi buổi sáng tôi thường thức dậ đón những tia nắng đầu tiên. Lúc đó , mặt trời đã lên khá cao đan xen với các đám mây trắng đang trôi bồng bềnh . bầu trời lúc này mới quang đãng làm sao . Vậy nên tôi rất thích ngắm bầu trời màu hạ .
Em tham khảo nhé:
Buổi sáng mùa hè trên quê hương tôi.! Một buổi sáng mùa hè có cơn gió heo may thổi qua mang theo hương cỏ dại ngai ngái phảng phất trên con đường làng. Tôi thấy trên bầu trời kia vẫn còn những đám mây bàng bạc chưa kịp trỗi dậy ,níu nhau thành từng hàng trải dài khắp trời cao. Ven đường làng, những cây bạch đàn cao vút lên xuyên thủng lớp mây kia như những cái phi lao lao về phía trước. Buổi sáng mùa hạ trong lành quá! Một buổi sáng có tiếng chim hót véo con trên những cành cây cao, có mùi hương của lòa cỏ dại ven đường , và rồi cả ảnh nắng mặt trời lung linh phản chiếu trên không gian rộng lớn kia. Và cứ thể mọi vật vươn vai tỉnh giấc ngủ hé nwor nủ cười đón ánh nắng ban mai . Thật kì diệu biết bao!
Đắm mình trong giấc ngủ cho đến khi mặt trời hé dần. Bước ra khỏi cánh cửa, em đã bị cuốn hút bởi vẻ đẹp kì diệu của hoạt cảnh trời mưa. Tiếng mưa rơi trên mái nhà và lá cây tạo nên một bản giao hưởng tựa như được thiên nhiên ban tặng cho con người mà cũng như một lời ru êm ái. Nhìn xa xa, những đám mây màu khoác trên mình chiếc áo xám trải dài trên khắp bầu trời, tạo nên một bức tranh u ám nhưng đầy mê hoặc kì lạ. Ở đó có gam màu xám của trời và mây tạo nên một sự tương phản đặc biệt với gam màu xanh tươi của cỏ cây, hoa lá. Chúng như trở nên rực rỡ hơn dưới những giọt trời, như là được tắm rửa và làm sạch thoải mái. Khép lại, mưa không chỉ đơn thuần là một nguồn sống mới cho thiên nhiên mà còn là sợi dây liên kết giữa con người và vẻ đẹp tự nhiên!
⚽☕Tuệ Lâm:")
Sau 1 tuần nắng nóng kéo dài,cuối cùng mưa cúng đã đến.Trên bầu trời xám xịt những đám mây đen mịt bao phủ toàn bộ ko gian.Tiếng gió rít lên từng cơn,mang theo hơi lạnh và mùi ẩm ướt của đất đai.Ngoài trời mưa rơi mạnh mẽ ,tạo nên âm thanh như tiếng trống vang lên khắp nẻo đường.Những giọt mưa như những viên ngọc quý lấp lánh trong ánh đèn đường.Mọi người đi lại với áo mưa và ô che đầu ,cố gắng tránh xa những giọt mưa lạnh lẽo.Con đường trở nên ướt nhẹp,tạo nên một bức tranh mờ ảo và lãng mạn.
2 trạng ngư: sau 1 tuần , ngoài trời
VD : Quê tôi Hà Tiên - cái vùng đất mà tôi được sinh ra và lớn khôn thành người .
Buổi sáng , khi ông mặt trời đang từ từ lên cao ,cũng là lúc chú gà đầu xóm tôi gáy vang lên để đánh thức các bác nông dân .
Tôi cùng cha đi ra ngoài đồng lúa . Hôm nay là ngày thu hoạch lúa. Cảnh tượng đã đập vào mắt tôi là một cánh đồng lúa với những ngọn lùa vàng óng ,chứa những hạt cơm mà chúng ta ăn thường ngày . Một cảnh tượng đồng lúa mênh mông bát ngát rất quen thuộc với những người nông dân .Cha dắt tay tôi đi trên con đường mềm mại những lớp đất còn ẩm vì trời mưa vào đêm qua. Tôi giúp cha tôi gặt những ngọn lúa .Mặt trời đã lên đến ngọn ,cũng là lúc những giọt mồ hôi của những người nông dân rơi từng giọt trên mảnh đất mênh mông ... Những ngọn gió phiêu du lướt ngang cánh đồng ,làm cho các ngọn lúa bay phấp phới . đến trưa ,hai cha con tôi cùng nhau dắt tay đi trên con đường đất đỏ .Vừa về đến nhà , tôi đã ngửi thấy ngay cái mùi cơm chín .
Cũng chính hôm nay ,tôi mới hiểu được nổi cực nhọc của cha và những người nông dân ,phải đổ giọt mồ hôi cho những hạt cơm .Vì vậy, phải biết quý những hạt cơm nhé.
-Với tuổi học trò, ai cũng có cái nao nao của ngày khai trường. Nhưng ngày khai trường của ngôi trường THCS Yên Biên làm tôi có những ấn tượng đẹp và những ấn tượng đó sẽ đọng mãi ở trong lòng. Bao niềm vui, Sự hãnh diện mà có lẽ trong cuộc đời tôi sẽ không quên được
Ngày đầu tiên khai trường, đó là một ngày nắng ấm , bao trùm lên cảnh vật. Khí trời ấm áp… Theo thông báo của nhà trường, từ tối hôm qua tôi đã chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết với tâm trạng vui vẻ và xôn xao khó tả. Bởi trước mắt tôi lúc này là một khung trời mới: bạn bè, thầy cô, trường lớp… đều mới tinh.Trong những năm trước, sau ba tháng hè nghỉ học, chúng tôi lại trở về mái trường thân quen với những hàng cây, ghế đá,..in đậm bao kỹ niệm của những lần nô đùa cùng bè bạn. Còn năm nay, tôi đã bước chân vào một năm học mới . Một sự khởi đầu mới lại và tốt đẹp.
Đầu tiên là lẽ chào đón các em học sinh lớp 6 bước vào trường, Gương mặt các em đầy sự vui vẻ, những trùm hoa chào mừng làm cho nụ cười trên gương mặt các em thêm rạng rỡ hơn Sau lễ diễu hành, nghi lễ chào cờ diễn ra thật trang nghiêm. Miệng hát vang bài Quốc ca, mắt hướng thẳng tới lá cờ đỏ sao vàng và Bác kính yêu trên cao đang mỉm cười với chúng tôi, tôi thầm hứa với Bác, với lòng mình rằng sẽ cố gắng nỗ lực hết sức mình để cống hiến công sức nhỏ bé cho nền giáo dục nước nhà. Lúc ấy, tay tôi bỗng nắm chặt, ánh mắt trở nên kiên nghị hơn, lòng đầy quyết tâm.
Tiếp theo, cô giáo tổng phụ trách lên tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu và mời cô giáo phó hiệu trưởng nhà trường lên đọc thư của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Những lá thư như vậy tôi nghe đã nhiều lần trong mỗi lễ khai giảng trước đây khi còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng có lẽ hôm nay là lần đầu tiên tôi cảm thấy xúc động đến vậy. Giây phút xúc động nhất của tôi là khi nghe cô giáo hiệu trưởng nhà trường đọc diễn văn khai giảng, phát động thi đua chào mừng năm học mới và đánh trống khai trường. Bài diễn văn của cô ngắn gọn, xúc tích nhưng đầy hào khởi, đủ để khơi dậy trong mỗi thầy trò lòng quyết tâm phấn đấu dạy tốt – học tốt, thi đua lập nhiều thành tích trong năm học mới. Chiếc trống được đặt trên sân khấu hôm nay thật đẹp, màu nâu gụ bóng loáng, được trang trí hoa văn đẹp mắt, đặc biệt là mặt trống. Dùi trống lại được làm điệu bằng chiếc khăn đỏ quấn quanh núm. Bác trống mấy tháng hè được nghỉ ngơi đang căng mình chờ đợi giây phút thiêng liêng này. Tiếng trống vang lên, tâm hồn tôi như được bay bổng. Hòa cùng tiếng trống âm vang đó là giọng nói trầm ấm của một cô giáo đọc lời bình tiếng trống từ phía trong cánh gà. Những lời lẽ thật hào hùng, đi sâu vào lòng người, nhắc nhở thế hệ trẻ nhớ tới quá khứ vinh quang của dân tộc để phấn đấu cho tương lai. Tôi có thể thấy rõ sự xúc động trong giây phút này, cũng giống như tôi. Tiếng trống ấy rồi sẽ theo các em đi suốt cuộc đời. Tiếng trống âm vang mà trầm ấm bay lên những ngọn cây, luồn trong những làn gió, vắt vẻo trên những đám mây của bầu trời thu tháng chín. Tôi chợt nghĩ tiếng trống khai trường có thể đại diện cho mùa thu Việt Nam lắm chứ, hay ít ra là mùa thu đối với riêng tôi và các bạn học sinh
Phần cuối cùng trong buổi lễ, cũng là phần thu hút được sự quan tâm nhiều nhất của học sinh trong trường là văn nghệ chào mừng. Chương trình văn nghệ gồm năm tiết mục với đủ thể loại: hát, múa, thể dục nhịp điệu vô cùng đặc sắc. Tôi xem các màn biểu diễn mà không khỏi trầm trồ thán phục trước tài năng của các học sinh trường mình. Toàn bộ học sinh và các thầy cô cũng như các vị đại biểu đều không rời mắt khỏi sân khấu trước các tiết mục rất hấp dẫn này. Nhiều người bày tỏ niềm tin tưởng vào sự giáo dục toàn diện nhà trường dành cho các em học sinh
-Buổi lễ kết thúc, tôi vẫn lang thang quanh trường. Suy nghĩ về một năm học mới, một nền giáo dục mới…Tôi sẽ cố gắng học tập trên ngôi trường thân
CHÚC BẠN HỌC TỐT
k cho mk nha, viết mỏi tay lắm đó
Bạn thân mến
Lâu rồi không gặp bạn thế nào. Vậy là đã bắt đầu một năm học mới.Bây giờ mk sẽ kể cho bn nghe về ngày khai giảng của trường mk:
sân trường thật là lộng lẫy tán cây đung đưa theo gió, bọn mk dc vui đùa mà ko bị mắng,thầy cô lặng lẽ nhìn bầu trời và bọn mk dc về rất sớm kể từ 15 phút bắt đầu khai giảng thật là tuyệt vời
thông thường ta thấy ,nỗi nhớ quê hương thường được thể hiện qua nỗi sầu của người xa xứ và qua tiêu đề của bài thơ ta thấy bài thơ đã bộc lộ một tình yêu quê hương khác hoàn toàn .tình yêu lại đc thể hiện ngay khi vừa đặt chân về quê nhà . ngay lúc ấy tưởng rằng sẽ được mọi người chào đón sau khoảng thời gian xa quê và nhận được sự hạnh phúc vui mừng nhưng niềm vui ấy lại vụt tắt ngay sau khi lũ trẻ nói ông là khách lạ
bài 1 :
nói đến quê hương thì ta lại phải nói đến những đặc thù của nó , đó là những con sông dài uốn lượn , là những chiếc thuyền tre trôi dạt , là cả những chú đom đóm , cô ve ,... nhưng khi nói đến quê em , điều làm em tự hào nhất đó là cánh đồng quê và chỉ khi ngắm nhìn nó khi ông mặt trời còn chưa tỉnh giấc thì mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của đồng quê . khi mặt bác mặt trời còn chưa đạp xe qua đỉnh núi , thì trên cánh đồng đã rộn ràng âm thanh của những chú ếch kêu ồm ộp , của chị bướm bay lả lướt trên đồng .lúc đó khung cảnh thật yên ả thanh bình . Nó yên tĩnh đến nỗi ta nghe được cả âm thanh của gió , của mây , tiếng nói của bầu trời và cả tiếng thì thầm trò chuyện của những bông lúa xanh non . bầu trời trong vắt mây gợn trắng , nhìn từ xa xa những chú chim hót líu lo chao liệng trên đồng . ở hai bên đồng là những con mương và bên cạnh là những cây bàng , phượng đang trông nom những đứa con cho chim nhỏ . phía chân trời xanh thẳm kia xuất hiện từng đôi cò trắng chúng bay lượn trên đồng vs một bộ cánh trắng muốt tựa tiên sa . lúc đó , bác mặt trời cũng vừa tỉnh giấc tỏa những tia nắng như muôn ngàn ánh sao chiếu xuống nhân gian , những hạt lúa màu xanh giờ đây cong mình trĩu nặng rồi ngả vàng như đang đón nhận những gì tinh túy nhất của trời đất . bác mặt trời nở một nụ cười với vạn vật , nghe đâu đây văng vẳng tiếng chú gà trống của một nhà nông đánh thức mọi người dậy . mọi người bắt đầu một ngày mới , họ hối hả ra đồng gặt lúa , làm những công việc thường ngày . Một ngày mới đã bắt đầu .
mik tự nghĩ đó ko chép mạng đâu , nhớ k cho mik và kb với mik nha !
Bầu trời xanh xanh, êm đềm, trong treo. Vừa đi, tôi vừa ríu rít chuyện trò với mẹ, vừa tung tăng chạy theo những cánh bướm đang chặp chờn bay lượn. Chẳng mấy chốc cánh đồng đã hiện ra trước mắt tôi. Chà! Toàn là một màu vàng óng ả. Biển lúa mênh mông xa tít tận chân trời. Từ xa nhìn lại, cả cánh đồng như một tấm thảm vàng trải rộng. Thoang thoảng đâu đây mùi lúa chín. Hương lúa ngọt ngào man mác quyện vào trong gió, phả vào mũi tôi. Bước qua chiếc cầu nhỏ nối giữa dòng kênh, đến gần, cánh đồng hiện ra rõ hơn. Những ruộng lúa vàng mượt mà, óng ả như những dải lụa mềm thướt tha. Những cây lúa nặng trĩu bông sai chíu chít. Những hạt lúa tròn căng đung đưa trước gió. Trời cao xanh vời vợi, mấy đám mây trắng bồng bềnh trôi. Ông mặt trời rạng rỡ toả ánh sáng lung linh làm lấp lánh những giọt sương long lanh còn đọng trên kẽ lá, vương trên những ngọn cỏ xanh rờn. Hương lúa nếp chín thơm ngào ngạt lan toả khắp cánh đồng. Tiếng sáo diều ngân nga, vi vu, nghe thật vui tai. làm bừng lên không khí rộn ràng, êm ả nơi làng quê. Những cánh diều chao lượn trên không như vờn vào mây trắng, như đua nhau cùng chị gió, cùng những cánh chim đang tung cánh giữa trời xanh. Xa xa, thấp thoáng những chiếc nón trắng nhấp nhô giữa mênh mông biển lúa như những chiếc nấm xinh xinh mọc lên giữa cánh đồng. Tôi sung sướng, say sưa và mải miết ngắm nhìn. Dòng kênh cuồn cuộn chảy, mấy chú cá tung tăng bơi lội, quẫy mạnh làm tung bọt nước trắng xoá. Mặt trời đã lên cao, ánh nắng rực rỡ chói chang tràn xuống cánh đồng. Trên con đường mịn màng thơm mùi lúa chín mấy em bé tung tăng dắt trâu về chuồng. Những chú trâu thong thả bước từng bước nặng nề còn mấy chú nghé bụng đã căng tròn quấn quýt chạy theo chân mẹ. Các bác nông dân vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ.
Nguồn: https://vietvanhoctro.com/ta-canh-buoi-sang-tren-canh-dong#ixzz5SMsfQDam
Tớ cho bạn dàn ý làm bài nhé!
Mở bài : cảnh chiều mưa buổi chiều
Thân bài:
_ Bao quát ___ Cảnh trời
___ biểu hiện ( tối , ......)
_ Thời gian địa điểm diễn ra ( lưu ý văn tả tăng cường yếu tố tả lên )
_ Nó là cơn mưa ( phùn, rào,......)
_ Khung cảnh lúc chưa mưa
_ Khung cảnh đang mưa
_ Mọi người, động vật tìm nơi trú
_ Tiếng của mưa (......)
_ Cảm nhận của em ( cảm giác hơi lạnh,.....)
Kết bài:
_ Sau khi cơn mưa kết thúc thì cảnh vật thế nào
_ Bầu trời còn sáng không?
_ Cảm xúc của bạn về buổi chiều mưa đó
Chúc bạn học tốt!
1.Mở bài: Trời oi bức, đứng gió, không khí ngột ngạt. Mây đen từ phía chân trời kéo về. Bầu trời tối sầm lại.
2.Thân bài:
Diễn biến của cơn mưa:
- Một vài hạt mưa bắt đầu rơi.
- Gió thôi ào ào, cây cối nghiêng ngả.
- Mưa nặng hạt dần. Mưa rơi lộp độp.
- Mưa xối xả, mưa như trút nước.
- Cây cối trong vườn ngả nghiêng trong ánh chớp nhoáng sáng loá và tiếng sấm ì ầm lúc gần, lúc xa.
- Ngồi trong nhà nhìn ra thấy một màn mưa trắng xóa. Giữa nền trời tối đen, lâu lâu một vệt chớp loằng ngoằng sáng chói như muốn xé toang bầu trời âm u. Tiếp theo là tiếng sấm ầm ầm, khiến cho mọi người giật mình.
- Dòng nước mưa từ trên cao trút xuống lấp lánh như bạc, chảy lai láng
- Mưa mỗi lúc một to, gió lay giật các cửa sổ và cửa ra vào.
- Hơi nước mát lạnh bay vào gian phòng.
Sau cơn mưa:
- Lá vàng rơi đầy sân.
- Trới trong veo không một gợn mây.
3.Kết bài: Cơn mưa đem lại sự mát dịu cho con người và cảnh vật, xua đi cái nóng ngột ngạt cùa buổi chièu.