Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a. Nguyên nhân thắng lợi
- Được nhân dân nhiệt tình ủng hộ
- Quang Trung, bộ chỉ huy lãnh đạo tài tình
b. Ý nghĩa:
- Lật đổ các tập đoàn phong kiến (Nguyễn – Trịnh – Lê)
- Lập lại thống nhất đất nước (xóa bỏ chia cắt).
- Đánh đuổi ngoại xâm (Thanh – Xiêm).
* Đánh giá:
- Chỉ sau 17 năm (1771 - 1788), phong trào Tây Sơn đã lần lượt tiêu diệt 3 tập đoàn phong kiến Nguyễn, Trịnh, Lê, xoá bỏ sự chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài hơn 2 thế kỉ.
- Phong trào Tây Sơn đã đóng góp công lao vô cùng to lớn vào sự nghiệp thống nhất đất nước.
- Công lao của quân Tây Sơn trong việc thống nhất đất nước gắn liền với bảo vệ độc lập dân tộc.
- Các phương tiện vận chuyển được các dân tộc thiểu số ở Việt Nam sử dụng trong cuộc sống hiện nay như xe ngựa, xe máy, xe đạp, thuyền, ô tô…
- Các phương tiện được sử dụng hiện nay của các dân tộc thiểu số có sự được cải tiến và hiện đại hơn như ô tô, thuyền cỡ lớn, xe máy. Sự thay đổi này là nhờ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại và những chính sách kịp thời của Đảng và Nhà nước trong việc giúp đỡ, tăng cường phát triển kinh tế của vùng các dân tộc thiểu số.
Bạn tham khảo
http://quehuongonline.vn/con-nguoi-viet-nam/le-loi-vi-anh-hung-giai-phong-dan-toc-30945.htm
ib đưa link
Học tốt
Tham khảo:
+Thăng Long Hà Nội đô thành
+Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ .
-Cố đô rồi lại tân đô
-Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây .
-Sông Tô một dải lượn vòng
-Ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh .
-Sông Hồng một khúc uốn quanh
-Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài .
-Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà
-Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui .
-Gió đưa cành trúc la đà
-Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương .
-Mịt mù khói tỏa màn sương
-Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ .
-Hỡi cô thắt lưng bao xanh
-Có về Kẻ Bưởi với anh thì về .
-Làng anh có ruộng tứ bề
-Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ...
-Lạy trời cho cả gió lên
-Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành .
-Nhong nhong ngựa ông đã về
-Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn .
-Đống Đa ghi để lại đây
-Bên kia Thanh Miếu, bên này Bộc Am .
-Long thành bao quản nắng mưa
-Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây...
-Trời cao biển rộng đất dày
-Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi .
-Nước sông Tô vừa trong vừa mát
-Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh .
-Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
-Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu .
-Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ
-Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn .
-Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
-Hỏi ai gây dựng nên non sông này .
-Kẻ Vẽ có thói có lề
-Kẻ Vẽ lại có nhiều nghề đâu hơn .
-Hỡi cô thắt dải lưng xanh
-Có về Phú Diễn với anh thì về .
Câu 1:
Thấy dừa thì nhớ Bến TreThấy bông sen nhớ đồng quê Tháp MườiCâu trên nói về danh lam thắng cảnh của hai tỉnh Bến Tre và tỉnh Tháp Mười. hai tỉnh này đều ở miền Tây và có những vẻ đẹp riêng của chính nơi này. Đối với Bến Tre thì đặc sản nơi đây là dừa, cứ hễ tới đây là chúng ta sẽ nhìn thấy dừa và thưởng thức những sản phẩm ngon của dừa. đối với Đồng Tháp thì vẻ đẹp nơi đây là hoa sen, một loài hoa xinh đẹp và rất tinh tế.
Câu 2:
Nhất cao là núi Ba VìThứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc TônBa Vì, Tam Đảo và Độc Tôn là những danh lam thắng cảnh rất nổi tiếng của đất nước ta. Ba Vì là một vùng ở phía Bắc, nổi tiếng với những đồng cỏ xanh mướt và thơ mộng. Tam Đảo là một ngọn núi cao sau núi Ba Vì, ở đây có 3 ngọn núi nên người ta gọi là Tam Đảo. Dộc Tôn là một núi cao nhưng không cao bằng hai ngọn núi kia.
Câu 3:
Chiều chiều mây phủ ải VânChim kêu ghềnh đá, gẫm thân lại buồnCâu ca dao trên nói về vẻ đẹp uy nghiêm và thơ mộng của Hải Vân. Một vẻ đẹp thơ mộng và vô cùng đẹp đẽ của một dãy núi miền Trung. Nơi đây được biết đến như một danh lam thắng cảnh đặc sắc.
Câu 4:
Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáyDòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàngAi về Mỹ Thuận, Tiền GiangCó thương nhớ gã đánh đàn năm xưa ?Bài ca dao nói về vẻ đẹp của sông Vàm Cỏ, Cửu Long, Tiền Giang, đây là những địa danh nổi tiếng của miền Tây. Những vẻ đẹp chân chất, đầy yêu thương và chân chất.
Tổng hợp một số câu ca dao tục ngữ về danh lam thắng cảnh :Cần Thơ có bến Ninh KiềuCó dòng sông đẹp với nhiều giai nhân
Bánh tráng Mỹ Lồng,Bánh phồng Sơn Đốc,
Măng cụt Hàm Luông
Bến Tre biển cá sông tôm,Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng.
Bến Tre gái đẹp thật thà,Nói năng nhỏ nhẹ mặn mà có duyên.
Bến Tre giàu mía Mỏ Cày,Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
Bến Tre nhiều gái chưa chồng,Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà coi.
Bến Tre nước ngọt lắm dừa,Ruộng vườn mầu mỡ, biển thừa cá tôm.
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn,
Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày.
Xoài chua cam ngọt Ba Lai,
Bắp thì Chợ Giữa, mắm bày ven bãi Giồng Khoai,
Bà Hiền, Tân Thủy hằng hà cá tôm.
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xàng,Phong Ðiền Anh có thương em thì cho bạc cho tiền
Ðừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê
Anh có thương em, xin sắm một con đò,
Để em qua lại mua cò gởi thơ
Đồng Nai, Châu Đốc, Định Tường,Lòng anh sở mộ gái miệt vườn mà thôi.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.
Biên Hoà bưởi chẳng đắng theĂn vào ngọt lịm như chè đậu xanh
Ai qua Phú Hội, phước Thiền (Thành)Bâng khuâng nhớ mãi sầu riêng Long Thành
Bến Tre giầu mía Mỏ CàyGiầu nghêu Thanh Phú, giầu xoài Cái Mơn
Bến Tre biển cá sông tôm
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng
Rau đắng nấu với cá trêAi về đất Mũi thì "mê" không về!
Bạc Liêu nước chảy lờ đờDưới sông cá chốt, trên bờ Triều chậu
Xoài nào ngon bằng xoài Cao LãnhVú sữa nào ngon bằng vú sữa Cần Thơ
Ai về thẳng tới Năm Căn
Ghé ăn bánh hỏi Sóc Trăng, Bãi Xàu
Mắm nêm, chuối chát, khế, rau
Tôm càng Đại Ngãi cặp vào khó quên!
Cổ Đô tốt đất cao nền
Ai đi đến đó cũng quên ngày về.
Cổ Loa là đất Đế KinhTrông ra lại thấy tòa thành Tiên xây.
Chẳng vui cũng thể hội ThầyChẳng đẹp cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.
Thăng Long Hà Nội đô thànhNước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây.
Sông Tô một dải lượn vòngấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng một khúc uốn quanh
Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoàiThăng Long, Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây
Ai về đến huyện Đông AnhGhé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây
Vải Quang, húng Láng, ngổ ĐầmCá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây.
Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng HàBuồm giong ba ngọn vui đà nên vui.
Sông Tô nước chảy quanh coCầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya...
Nước sông Tô vừa trong vừa mátEm ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồXem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này.
Chẳng vui cũng thể hội ThầyChẳng đẹp cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.
Thăng Long Hà Nội đô thànhNước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm vă
Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng HàBuồm giong ba ngọn vui đà nên vui. n vật bây giờ vẫn đây.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồXem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này
Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa màn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Chẳng thơm cũng thể hoa nhàiChẳng thanh lịch cũng là người Thủ đô.
Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu
Bao phen quạ nói với diềuCù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm
Biên Hòa có bưởi Thanh TràThủ Ðức nem nướng, điện Bà Tây Ninh
Cà Mau hãy đến mà coiMuỗi kêu như sáo thổi
Ðỉa lội lềnh như bánh canh
Cần Thơ là tỉnhCao Lãnh là quê
Anh đi lục tỉnh bốn bề
Mảng lo buôn bán không về thăm em
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong ÐiềnAnh thương em cho bạc cho tiền
Ðừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà NoAnh có thương em, xin sắm một con đò
Ðể em qua lại mua cò gởi thơ
Con cò lặn lội bờ sôngGánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Ðể anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Con trai trong Quảng ra thiThấy con gái Huế chân đi không đành
Ðèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏÐèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi mười Thu em cũng chờ
Ðồng Ðăng có phố Kỳ LừaCó nàng Tô thị có chùa Tam Thanh
Ðèn nào sáng bằng đèn Sa ÐécGái nào đẹp bằng gái Nha Mân
Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần
Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run
Ðồng Tháp Mười cò bay thẳng cánhNước Tháp Mười lóng lánh cá tôm
Muốn ăn bôn súng mắm kho
Thì vô Ðồng Tháp ăn no đã thèm
Gió đưa tàu chuối la đàTiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Gió đưa tàu chuối la đàTiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Gà nào hay bằng gà Cao LãnhGái nào bảnh bằng gái Nha Mân
Gái Tầm Vu đồng xu ba đứaCon trai Thủ Thừa cỡi ngựa xuống mua
Gái Thới Bình lòng ngay dạ thẳngTrai bạc tình một cẳng về quê
Gò Công giáp biển, nổi tiếng mắm tôm chàMắm tôm chua ai ai cũng chắt lưỡi hít hà
Saigon, chợ Mỹ ai mà không hay
Lục tỉnh có hạt Ba XuyênBạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày
Mậu Thìn vốn thiệt năm nay
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang
Phong Thạnh vốn thiệt tên làng
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung
Anh em Mười Chức công khùng
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...
Nhà Bè nước chảy chia hiaAi về Gia Ðịnh, Ðồng Nai thì về
Phượng hoàng đậu nhánh vông nemPhải dè năm ngoái cưới em cho rồi
Ngã tư Chợ Gạo nước hồi
Tui chồng mình vợ còn chờ đợi ai
Trầu Bà Ðiểm xé ra nửa láThuốc Gò Vấp hút đã một hơi
Buồn tình gá nghĩa mà chơi
Hay là anh quyết ở đời với em?
Ai vô Quảng Nam cho tôi gửi mua đôi ba lượng quếAi ra ngoài Nghệ cho tôi gởi mua tám chín lượng sâm
Đem về nuôi dưỡng phụ thân
Hai ta đền đáp công ơn sinh thành.
Anh về Bình Định ở lâuChiều chiều em đứng vườn dâu ngó chừng
Hai hàng nước mắt rưng rưng
Chàng xa thiếp cách, ngang chừng muốn băng
Phụ mẫu nhà la dức(1) rầm rầm
Cơm sao ngơ ngáo, làm không muốn làm
Bởi vì chưng thiếp bắc chàng nam
Giơ tay không nổi, còn làm việc chi.
Ai về nhớ vải Đinh HòaNhớ cau Hổ Bái nhớ cà Đan Nê
Nhớ dừa Quảng Hán, Lựu Khê
Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào
Ai về Nhượng Bạn thì vềGạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn.
Bắc Cạn có suối đãi vàngCó hồ Ba Bể có nàng áo xanh
Bình Định có núi Vọng PhuCó đầm Thị Nại có cù lao Xanh
Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa
Bóng đèn là bóng đèn hoaAi về vùng Bưởi với ta thì về
Vùng Bưởi có lịch có lề
Có sông tắm mát cò nghề seo can
Vĩnh Long có cặp Rồng VàngNhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Thuần
Xứ Cần Thơ nam thanh nữ túXứ Rạch Giá vượn hú, chim kêu.
Muốn ăn bông súng mắm khoThì vô Đồng Tháp ăn no đã them
Trên đây là Ca dao, tục ngữ, câu nói về danh lam thắng cảnh hay nhất, hi vọng bài viết đã đáp ứng được những kiến thức mà bạn cần. xin chân thành cảm ơn.
Nhân dân ta không chỉ giàu về tình nghĩa, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,… mà còn có lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng. Lòng yêu nước trở thành một truyền thống đẹp đẽ, quý báu của nhân dân ta, nó được phát huy và thể hiện mạnh mẽ mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng. Truyền thống quý báu đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích: “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài văn được trích trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Bài văn có thể coi là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng của thể văn nghị luận.
Trước hết về nội dung, văn bản nêu lên luận đề cơ bản: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta”. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ. Trong câu văn tiếp theo tác giả đã sử dụng động từ với hình thức tăng tiến: lướt qua, nhấn chìm cùng với đó là hình ảnh so sánh tinh thần yêu nước như một làn sóng mạnh mẽ, đã cho thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta. Để làm sáng tỏ chân lí đó tác giả đã chứng minh nó ở hai thời điểm: quá khứ và hiện tại.
Bề dày lịch sử truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã được tác giả đưa ra dẫn chứng cụ thể ở các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đây là những vị anh hùng của dân tộc. Lấy những dẫn chứng hết sức tiêu biểu, mỗi nhân vật lịch sử gắn liền với một chiến công hiển hách, vang dội đã làm cho người đọc thấy rõ tinh thần yêu nước của tổ tiên, ông cha.
Không dừng lại ở đó, để mở rộng luận điểm, làm người đọc tin và bị thuyết phục hơn nữa, tác giả tiếp tục lấy dẫn chứng đến thời điểm hiện tại. Ở đoạn thứ ba Hồ Chí Minh tập trung chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng hàng loạt các dẫn chứng. Sau câu chuyển đoạn “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” Hồ Chí Minh đã khái quát lòng yêu nước ghét giặc của nhân dân: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Tiếp đó bằng hình thức liệt kê, kết hợp với mô hình liên kết từ …đến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ lòng yêu nước của mọi tầng lớp, lứa tuổi, giai cấp,… Những dẫn chứng đó vừa cụ thể vừa toàn diện, thể hiện sự cảm phục, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của đồng bào ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Phần cuối văn bản là lời khẳng định tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, chúng có thể rõ ràng dễ thấy nhưng cũng có khi được “cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Lần đầu tiên, một thứ vô hình là lòng yêu nước lại được Bác cụ thể hóa, hữu hình hóa một cách vừa giản dị vừa cao quý đến như vậy. Qua lời của Bác, lòng yêu nước không phải những điều lớn lao, xa vời mà nó giản dị, ở ngay xung quanh ta. Nhiệm vụ của ta lại phải phát huy lòng yêu nước đó thành những hành động, việc làm cụ thể trong công việc kháng chiến, công việc yêu nước.
Về nghệ thuật, bài văn có bố cục chặt chẽ, gồm ba phần (phần một nêu lên vấn đề nghị luận “tinh thần yêu nước của nhân dân ta”; phần hai chứng minh tinh thần yêu nước trong quá khứ và hiện tại; phần ba nhiệm vụ của Đảng trong việc phát huy tinh thần yêu nước). Lập luận mạch lạc, rõ ràng, lí lẽ thống nhất với dẫn chứng. Dẫn chứng phong phú, cụ thể, được diễn đạt bằng những hình ảnh so sánh cụ thể, sinh động.
Bài văn đã làm sáng tỏ chân lí muôn đời của cha ông ta đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, sẵn sàng đấu tranh và hi sinh để giành tự do, độc lập cho dân tộc. Truyền thống đẹp đẽ đó cần phải được phát huy mạnh mẽ vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
+ Quá khứ: Thời đại Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung và lòng yêu nước ngày nay của đồng bào. Đó là những dẫn chứng tiêu biểu, theo trình tự thời gian với những tên tuổi gắn liền với những chiến công hiển hách của dân tộc ta trong lịch sử chống ngoại xâm. Đồng thời, tác giả cũng đi từ nhận xét bao quát đến những dẫn chứng cụ thể.
+ Hiện tại: Đồng bào ra ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước…., những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau… yêu nước, Từ các cụ già tóc bạc… ghét giặc. Tác giả đã liệt kê các dẫn chứng theo mô hình liên kết Từ… đến.
=> Dẫn chứng thời quá khứ cụ thể hơn, ngắn gọn hơn. Dẫn chứng hiện tại khái quát hơn nhưng dung lượng dài hơn.
Có sự khác biệt như vậy vì tác giả muốn chứng minh dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Những tên tuổi trong quá khứ ai cũng biết. Những tên tuổi thời hiện tại không được nhắc cụ thể nhưng trải đều ra ở mọi ngành nghề, tuổi tác, giới tính, ... qua đó thức dậy lòng yêu nước của nhân dân tham gia vào sự nghiệp cứu nước.
Tháng tư vừa rồi, trường em có tổ chức một buổi tham quan nằm trong chuỗi hoạt động ngoại khóa của trường. Điểm đến lần này là Đền Hùng tại Việt Trì-Phú Thọ. Đây là nơi thờ phụng các đời Vua Hùng và tôn thất của nhà vua. Nơi đây gắn với Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức hàng năm vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch. Đây là một dịp để thế hệ con cháu đến viếng đền, tưởng nhớ đến những người đã có công dựng nước.
Em đã được nghe nhiều câu chuyện về các Vua Hùng qua các sự tích nổi tiếng như Sự tích bánh chưng bánh dày, Sơn Tinh Thủy Tinh… và thấy được sự uy nghiêm và trí tuệ của các vị vua. Điều đó khiến tôi càng mong đợi chuyến đi này hơn.
Dưới chân núi là khung cảnh uy nghiêm, hùng vĩ của núi Nghĩa Lĩnh với rừng cây và sương mù bao phủ. Nơi thờ các vị vua được đặt trên núi với ba đền chính là đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Đền Hạ tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Đền Trung là nơi các vị vua họp bàn chính sự. Đền Thượng là lăng thờ Hùng Vương thứ sáu. Lễ hội đền Hùng được tổ chức hàng năm bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác… Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng.
Trước khi đi tham quan các đền, chúng tôi được làm lễ dâng hương và nghe diễn thuyết về các vị Vua Hùng. Không khí trang nghiêm, hào hùng ấy khiến tôi không khỏi tự hào về lịch sử dân tộc mình. Họ đã dựng nước, giữ nước để đời sau con cháu được hưởng thụ nền độc lập, hòa bình ấy. Và nay chúng em đến đây để thể hiện lòng biết ơn, sự tôn trọng của mình đối họ, thể hiện đúng truyền thống đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Họ đã gây dựng nền móng cho nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa hiện tại và chúng em đều biết ơn điều đấy.
Sau đó, chúng em được đi thăm các đền thờ vua trên núi. Cách trang trí, sắp xếp các di vật đều được bố trí một cách ngay ngắn, trang nghiêm. Em ấn tượng với tấm bia ở đền Hạ khắc dòng chữ của Bác Hồ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta cùng nhau giữ lấy nước.” Nó như một lời hứa hẹn Bác thay thế hệ trẻ nói lên trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước.
Đó thực sự là một chuyến đi đầy bổ ích và ý nghĩa. Mặc dù nó chỉ kéo dài trong một buổi sáng ngắn ngủi nhưng nó đã giúp em hiểu ra trách nhiệm của mình đối với đất nước. Phải biết kính trọng, biết ơn thế hệ đi trước đặc biệt là các vị Vua Hùng và phải ghi nhớ:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.”
VOTE T 5 SAO NHAA!
Hồ chí minh , Võ nguyên giáp , Võ thị sáu , bế văn đàn , la văn cầu , nguyễn thị chiên , nguyễn thị định , kim đồng , nguyễn văn trỗi , trần hữu bảo , hồ tùng mậu , trương công định , lê thị thu nguyệt , lê văn tám , cù chính lan , trần can , nông văn dền , đỗ viết cường , nguyễn văn tàu , ...