Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nguyễn Dữ là một nhà văn sáng tạo. Cái kết truyền thống của "Vợ chàng Trương" là Vũ Nương nhảy sông tự vẫn, cuối cùng khi nhận ra nàng bị oan, người ta mới dựng đền thờ nàng gần đấy. Song dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ thì tác phẩm trở nên độc đáo lên hẳn. Ông biết kết hợp cốt truyện truyền thống với các chi tiết kì ảo, làm nổi bật ước mơ của nhân dân ta, như chi tiết kì ảo cuối truyện, Vũ Nương không chết mà được cứu sống, sống dưới thủy cung, hưởng cuộc sống hạnh phúc bất tử vĩnh viễn. Nhưng chính chi tiết này cũng là chi tiết khiến người đọc đau xót. Đây có thật là cái kết vẹn toàn? Vũ Nương khi sống không được hưởng hp trọn vẹn. Đến lúc nàng có được những gì đáng được hưởng thì nó chỉ mờ nhạt, giống như hư ảo (chi tiết Vũ Nương võng lọng hiện lên từ dưới sông cuối truyện)
Mình học truyện này từ năm ngoái, đến giờ cũng chỉ nhớ được có thế, có gì ban nên hỏi các thầy cô giáo để rõ hơn nhé :')
I/ Tìm hiểu đề
- Đề yêu cầu phân tích một giá trị nội dung của tác phẩm – giá trị nhân đạo. Giá trị nhân đạo thể hiện trong tác phẩm văn chương còn gọi là giá trị nhân văn.
- Văn học trung đại Việt Nam thường biểu hiện tiếng nói nhân văn ở sự trân trọng mọi phẩm giá con người, đồng tình thông cảm với khát vọng của con người, đồng cảm với số phận bi kịch của con người và lên án những thế lực bạo tàn chà đạp lên con người.
- Dựa vào những điều cơ bản trên, người viết soi chiếu vào “Chuyện người con gái Nam Xương” để phân tích những biểu hiện cụ thể về nội dung nhân văn trong tác phẩm. Từ đó đánh giá những đóng góp của Nguyễn Dữ vào tiếng nói nhân văn của văn học thời đại ông.
- Tuy cần dựa vào số phận bi thương của nhân vật Vũ Nương để khai thác vấn đề, nhưng nội dung bài viết phải rộng hơn bài phân tích nhân vật, do đó cách trình bày phân tích cũng khác.
II/ Dàn bài chi tiết
A- Mở bài:
- Từ thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu khủng hoảng, vấn đề số phận con người trở thành mối quan tâm của văn chương, tiếng nói nhân văn trong các tác phẩm văn chương ngày càng phát triển phong phú và sâu sắc.
- Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong số đó. Trong 20 thiên truyện của tập truyền kì, “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Dữ.
B- Thân bài:
* Khái niệm nhân đạo: lòng yêu thuơng, sự ngợi ca, tôn trọng giá trị, phẩm chất, vẻ đẹp, tài năng, và quyền lợi của con nguời.
1. Tác giả hết lời ca ngợi vẻ đẹp của con người qua vẻ đẹp của Vũ Nương, một phụ nữ bình dân
- Vũ Nương là con nhà nghèo (“thiếp vốn con nhà khó”), đó là cái nhìn ng-ười khá đặc biệt của tư tưởng nhân văn Nguyễn Dữ.
- Nàng có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của nguời phụ nữ Việt Nam: thuỳ mị, nết na. Đối với chồng rất mực dịu dàng, đằm thắm thuỷ chung; đối với mẹ chồng rất mực hiếu thảo, hết lòng phụng dưỡng; đối với con rất mực yêu th-ương.
- Đặc biệt, một biểu hiện rõ nhất về cảm hứng nhân văn, nàng là nhân vật để tác giả thể hiện khát vọng về con người, về hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa:
+ Nàng luôn vun vén cho hạnh phúc gia đình.
+ Khi chia tay chồng đi lính, không mong chồng lập công hiển hách để đuợc “ấn phong hầu”, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về.
+ Lời thanh minh với chồng khi bị nghi oan cũng thể hiện rõ khát vọng đó: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất”
Tóm lại: dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn đã xuất hiện nhiều trong văn chương, Nguyễn Dữ mới có thể xây dựng một nhân vật phụ nữ bình dân mang đầy đủ vẻ đẹp của con người. Nhân văn là đại diện cho tiếng nói nhân văn của tác giả.
2. Nguyễn Dữ trân trọng vẻ đẹp của Vũ Nuơng bao nhiêu thì càng đau đớn truớc bi kịch cuộc đời của nàng bấy nhiêu.
- Đau đớn vì nàng có đầy đủ phẩm chất đáng quý và lòng tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tuỵ vun đắp cho hạnh phúc đó lại chẳng được hưởng hạnh phúc cho xứng với sự hi sinh của nàng:
+ Chờ chồng đằng đẵng, chồng về chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một nguyên cớ rất vu vơ (Người chồng chỉ dựa vào câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã khăng khăng kết tội vợ).
+ Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng xóm rõ nỗi oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột cùng “Nay đã bình rơi trâm gãy,… sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió,… cái én lìa đàn,…” mà nguời chồng vẫn không động lòng.
+ Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan khuất
→ Bi kịch đời nàng là tấn bi kịch cho cái đẹp bị chà đạp nát tan, phũ phàng.
3. Nhưng với tấm lòng yêu thuơng con người, tác giả không để cho con người trong sáng cao đẹp như nàng đã chết oan khuất.
- Mượn yếu tố kì ảo của thể loại truyền kì, diễn tả Vũ Nương trở về để được rửa sạch nỗi oan giữa thanh thiên bạch nhật, với vẻ đẹp còn lộng lẫy hơn xưa.
- Nhưng Vũ Nương được tái tạo khác với các nàng tiên siêu thực : nàng vẫn khát vọng hạnh phúc trần thế (ngậm ngùi, tiếc nuối, chua xót khi nói lời vĩnh biệt “thiếp chẳng thể về với nhân gian được nữa”.
- Hạnh phúc vẫn chỉ là ước mơ, hiện thực vẫn quá đau đớn (hạnh phúc gia đình tan vỡ, không gì hàn gắn đuợc).
4. Với niềm xót thương sâu sắc đó, tác giả lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên khát vọng chính đáng của con nguời.
- Xã hội phong kiến với những hủ tục phi lí (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu,…) gây bao nhiêu bất công. Hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu.
- Thế lực đồng tiền bạc ác (Trương Sinh con nhà hào phú, một lúc bỏ ra 100 lạng vàng để cưới Vũ Nương). Thời này đạo lí đã suy vi, đồng tiền đã làm đen bạc tình nghĩa con người.
→ Nguyễn Dữ tái tạo truyện cổ Vợ chàng Trương, cho nó mạng dáng dấp của thời đại ông, xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI.
C- Kết bài:
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là một thiên truyền kì giàu tính nhân văn. Truyện tiêu biểu cho sáng tạo của Nguyễn Dữ về số phận đầy tính bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.
- Tác giả thấu hiểu nỗi đau thương của họ và có tài biểu hiện bi kịch đó khá sâu sắc.
Ý nghĩa của chi tiết Vũ Nương gieo mình xuống sông tự vẫn:
- Phản ánh số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu oan khuất và uất ức mà đi đến bức đường cùng.
- Bày tỏ sự tiếc thương của tác giả trước số phận mong manh và đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Tố cáo đanh thép xã hội phong kiến tàn ác bất nhân chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ.
Bạn tham khảo:
-Xuất xứ: “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ “Truyền kỳ mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”.
-Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về sự công bằng trong cuộc đời, bởi vì người nói đã thấy được giá trị nhân đạo, nhân văn của tác phẩm: người tốt dù có gặp bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng sẽ được minh oan, được trả lại thanh danh và phẩm giá. Cách kết đó mang dáng dấp một kết thúc có hậu của truyện cổ tích. Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái kết lung linh kì ảo, bởi ý kiến đó xuất phát từ việc nắm bắt giá trị hiện thực của tác phẩm: tuy nhân vật Vũ Nương vẫn được miêu tả với kiếp sống ở chốn thuỷ cung và sự trở về lung linh kì ảo để thể hiện ước mơ của con người về sự công bằng trong cuộc đời, nhưng tính bi kịch cũng tiềm ẩn ngay từ cái kết này bởi sự trở về và ước mơ hạnh phúc của Vũ Nương mang màu sắc ảo ảnh, hư vô, con người chỉ biết tìm đến cho mình hạnh phúc ở một thế giới không hiện hữu.
Chuyện người con gái Nam xương có nguồn gốc từ đâu ?
=> “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ “Truyền kỳ mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”.
theo em việc Nguyễn dữ viết thêm đoạn kết của câu chuyện có ý nghĩa gì
Tham khảo
=> có ý nghĩa là mặc dù đã kết thúc những vẫn còn bi kịch xảy ra với vũ nương
thể hiện rằng Lúc sống, Vũ Nương chỉ mong được vui thú vui nghi gia bên chồng con. Lúc chết, Vũ Nương sống dưới thủy cung, mãi mãi không thể hưởng hạnh phúc gia đình, xa chồng, xa con, âm dương cách biệt. Trương Sinh một mình nuôi con, sống những ngày tháng trong hối hận giày vò. Bé Đản mồ côi mẹ, sống thiếu tình thương của mẹ. Gia đình tan nát, hạnh phúc tan vỡ, bi kịch ấy vẫn kéo dài.
Tham khảo:
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bi kịch và đáng thương:
Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng "Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi!", còn chị em miền xuôi lại thân mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong hai tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du và "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
Trong một xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong lận đận. Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương".
Tục ngữ có câu "Gái có công thì chồng chẳng phụ" thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bóng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người.
Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều của Nguyễn Du. Thật hiếm có người phụ nữ nào trong văn học có một số phận "đoạn trường" như Vương Thuý Kiều trong “Truyện Kiều”. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình nên đã bị bán đi với cái giá ngoài bốn trăm lạng vàng. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để tự vẫn. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nỗi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một trang sắc nước hương tài. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".
Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà là số phận của bao người phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy, Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát lên thành lời chung, thành kiếp đau khổ chung của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng ngoài.
Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành. Đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn. Với chế độ Nam quyền: “Trọng nam khinh nữ”, người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị dấu dúm. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như đạo “tam tòng”, hay các quan niệm lạc hậu như "nữ nhân ngoại tộc". Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng. Tàn dư ấy của chế độ cũ vẫn còn rơi rớt cho đến ngày nay, trên nạn bạo hành đối với phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Nhất là ở nông thôn.
Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói "Hồng nhan thì bạc phận" nhưng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Người phụ nữ giờ đây đã được quyền bình đẳng, nhất là quyền tự do trong hôn nhân và quyền quyết định số phận của mình. Những hành vi xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ chắc chắn sẽ đều bị trừng trị một cách nghiêm khắc. Tuy ra đời cách đây gần hai thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòng người đọc. Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một hình tượng rất đẹp, rất có ý nghĩa về người phụ nữ. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa nàng lại xuất thân kẻ khó vậy mà lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mĩ, nhân vật lý tưởng. Còn riêng “Truyện Kiều” lại mang một cảm hứng nhân đạo rõ rệt - đây chính là sự kết tinh sức sống và tinh thần dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng này là kết tinh giá trị ưu tú nhất trong “Truyện Kiều”. Có được điều ấy không phải là do cái tài của Nguyễn Du mà là do tấm lòng yêu thương con người của Nguyễn Du.
Viết “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều”, Nguyễn Dữ cùng với Nguyễn Du đã góp một tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng người phụ nữ.
Các sự việc chính trong truyện để viết thành văn bản như sau:
- Xưa có chàng Trương Sinh cùng vợ là Vũ Nương sống với nhau rất hạnh phúc.
- Giặc đến,triều đình kêu gọi thanh niên trai tráng trong làng đi lính. Trương Sinh bị bắt đi lính.
- Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ già, nuôi dưỡng con nhỏ và ngày ngày ngóng trông tin tức của chồng.
- Giặc tan, Trương Sinh trở về nghe lời con nhỏ nghi vợ mình không chung thuỷ.
- Vũ Nương bị oan, gieo mình xuống sông Hoàng Giang để tự vẫn.
- Một đêm Trương Sinh cùng con trai ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tường và nói đó chính là người hay tới đêm đêm.
- Chàng Trương hiểu ra rằng vợ mình bị oan.
- Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương dưới thuỷ cung.
- Khi Phan Lang được trở về trần gian, Vũ Nương giữ chiếc thoa vàng cùng lời nhắn cho Trương Sinh.
- Trương Sinh lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang, Vũ Nương trở về ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, lúc ẩn, lúc hiện.
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Vẻ đẹp, đức hạnh và số phận của Vũ Nương.
b. Thân bài:
- Vũ Nương là người phụ nữ đẹp.
- Phẩm hạnh của Vũ Nương:
+ Thuỷ chung, yêu thương chồng (khi xa chồng ...)
+ Mẹ hiền (một mình nuôi con nhỏ ...)
+ Dâu thảo (tận tình chăm sóc mẹ già lúc yếu đau, lo thuốc thang ...)
- Những nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương.
+ Cuộc hôn nhân bất bình đẳng.
+ Tính cách và cách cư xử hồ đồ, độc đoán của Trương Sinh.
+ Tình huống bất ngờ (lời của đứa trẻ thơ ...)
- Kết cục của bi kịch là cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
- Ý nghĩa của bi kịch: Tố cáo xã hội phong kiến.
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm.
c. Kết bài:
- Khẳng định lại phẩm chất, vẻ đẹp của Vũ Nương.
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
refer
Chuyện người con gái Nam Xương là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục (Cùng với 11 trong 20 truyện về phụ nữ). Nguồn gốc của truyện bắt nguồn từ một truyện cổ tích dân gian tên là Vợ chàng Trương.
Chuyện người con gái NX được trích từ Truyền Kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ
Tham Khảo !
Nói về truyện cổ tích, từ xưa tới nay đã có rất nhiều câu chuyện hay như: Tấm Cám, Sọ Dừa, Sự tích trầu cau.. .Và trong số hàng ngàn những câu chuyện cổ tích ấy, có một số truyện được Nguyễn Dữ khai thác và sáng tạo thành tác phẩm viết bằng chữ Hán: Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền). Một trong hai mươi truyện thể hiện sâu sắc tính nhân văn cao cả của tác giả đối với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam dưới ngòi bút tài hoa đầy sáng tạo của Nguyễn Dữ mang tên Chuyện người con gái Nam Xương.
Lấy tích từ truyện cổ tích Vợ chàng Trương, chắc hẳn ai cũng nhận ra phần sáng tạo của Nguyễn Dữ được thể hiện bắt đầu từ chi tiết xuất hiện thêm nhân vật Phan Lang và Vũ Nương được đưa xuống cung nước của Linh Phi. Với việc sáng tạo thêm những chi tiết hoang đường kì ảo ấy, Nguyễn Dữ đã làm rõ thêm nét đặc trưng, cái đẹp của thể loại truyền kì và đồng thời cũng mở rộng, đan xen vào đó những yếu tố thực hư, thời gian chính xác rõ ràng: “Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người phải sợ hãi chạy trốn […]” để khẳng định rằng: đó là một bi kịch có thật. Bi kịch của những con người sống trong xã hội có chiến tranh nói chung và bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nam quyền hói riêng. Mặt khác, một lần nữa, Nguyễn Dữ đã lại hoàn chỉnh thêm vẻ đẹp tâm hồn cho Vũ Nương, đó là: dù đã ở một thế giới khác, Vũ Nương vẫn nặng lòng với chồng con, vẫn mong muốn khát khao được trả lại danh dự, được khẳng định phẩm giá của chính mình và đồng thời cũng thể hiện quan niệm, niềm mơ ước ngàn đời của nhân dân ta về sự bất tử, sự công bằng của con người trong cuộc đời: ở hiền ắt sẽ được gặp lành, người hiền, trong sáng, minh bạch sớm muộn rồi cũng được trời đất soi thấu và cứu giúp.
Trong truyện cổ tích Vợ chàng Trương, đặc biệt không có một lời hội thoại nào giữa các nhân vật nhưng ở Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả Nguyễn Dữ đã khéo léo lồng ghép vào đó những lời thoại, lời tự bạch của nhân vật để khắc hoạ rõ nét nhất, chân thực nhất tâm lí, tính cách và thế giới nội tâm phong phú của nhân vật. Với người mẹ chồng của Vũ Nương, bà hiện lên là một người phụ nữ từng trải và nhân hậu. Vũ Nương được miêu tả như một người con gái hiền thục, trong trắng, dịu dàng, mềm mỏng, nhưng có tình có lí ngay cả trong những hoàn cảnh trớ trêu, đáng thương nhất. Những lời thoại giúp bộc lộ rất rõ thế giới tâm hồn và cảm xúc vô cùng phong phú của một người phụ nữ giàu tình cảm, trái ngược hẳn với Trương Sinh: tuy giàu có mà thô lỗ, ít học, cố chấp, mù quáng, ghen tuông,… Cuối cùng là sự thật thà, trong sáng, ngây dại của một đứa trẻ mà cụ thể ở đây là bé Đản – người con trai của Vũ Nương và Trương Sinh, đã vô tình gián tiếp gây ra cái chết bi thương cho mẹ nó.
Mặt khác, nhìn ở một mức độ sâu hơn, ta có thể cảm nhận được hai nét tính cách đối lập nhưng lại nhất quán trong tâm hồn người phụ nữ, đó là rất nhẫn nhục, chịu đựng nhưng cũng biết vùng lên để phản kháng, bảo vệ nhân phẩm và danh dự của mình. Việc Nguyễn Dữ để cho Vũ Nương được Linh Phi đưa xuống cung nước để rồi quay trở về trong kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ có thể hiểu rằng: Vũ Nương trở về một phần vì nhớ quê hương nhưng quan trọng nhất là nàng đã có thể khẳng định phẩm giá, tự minh oan cho mình và phải chăng, sự quay trở về ấy khiến cho một kẻ ít học, ghen tuông mù quáng, gia trưởng như Trương Sinh phải sám hối?
Với sự sáng tạo đầy tính nhân văn ấy, dường như tính bi kịch của câu chuyện được tăng lên rất nhiều, càng động chạm tới nỗi xót xa tột cùng trong sâu thẳm tâm hồn mỗi độc giả. Đó là một kết thúc mang đậm tính bi kịch. Nỗi đau khổ luôn luôn đeo bám con người, đeo bám Vũ Nương. Nàng ở dưới cung nước, sống giữa xa hoa với bầy tiên nữ, ngày ngày được hưởng thụ sung sướng nhưng vẫn không thể không nhớ con, không thể không nhớ về một thời hạnh phúc với gia đình… Nỗi đau khổ ấy, bi kịch cuộc đời ấy luôn đeo bám con người, nhất là người phụ nữ, ngay cả khi họ chết. Đó mãi là bi kịch và hạnh phúc thì mãi xa vời…
Cuộc đời sinh ra chẳng ai mong muốn cái chết. Vậy mà một người phụ nữ giàu tình cảm, hết mực yêu chồng thương con như Vũ Nương lại phải tự mình từ chối cơ hội được trở về bên mái ấm bé nhỏ chốn nhân gian ấy… Có lẽ bởi nàng muốn ở lại chốn cung nước vì coi trọng tình nghĩa, để đền đáp ơn cứu mạng của Linh Phi đã tạo cơ hội cho nàng được tự minh oan cho chính mình. Từ đó, chủ đề của tác phẩm được nâng lên thành lời tố cáo, lời lên án đanh thép, mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến thời bấy giờ: con người không thể tìm thấy, không thể khẳng định được danh dự, phẩm giá của mình ở xã hội phong kiến mục ruỗng mà chỉ có thể làm điều ấy ở cõi chết mà thôi. Xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công không biết coi trọng phẩm giá tốt đẹp của người phụ nữ, không có chỗ cho người phụ nữ. Họ không có chỗ trong xã hội ấy, xã hội nơi mà niềm tin, tình yêu, niềm hạnh phúc bé nhỏ của người phụ nữ cũng không thể lên tiếng.
Trong tất cả các tác phẩm văn học ở mọi thời đại, hình ảnh và số phận đáng thương của người phụ nữ luôn là một mảng đề tài gợi nhiều xúc cảm đối với cả tác giả lẫn độc giả. Cũng như vậy, sự cảm thông, bằng tấm lòng xót xa thương cảm sâu sắc cho thân phận người phụ nữ kết hợp với ngòi bút tài hoa, Nguyễn Dữ đã khắc hoạ chân dung nàng Vũ Nương thực sự đáng thương khiến người đọc không khỏi ứa nước mắt…
Tham khảo nha em:
Chuyện người con gái Nam Xương dựa trên chuyện vợ chàng Trương về cốt truyện , nhưng ở đây tác giả Nguyễn Dữ đã thêm thoắt một vài chi tiết mang màu sắc hoang đường thần kì để câu chuyện trở nên hay hơn
Nguyễn Dữ thêm phần cuối đó là cảnh Vũ Nương ở dưới thuỷ cung gặp Phan Lang- gởi chiếc thoa về cho Trương Sinh- Cảnh nhà Trương Sinh cỏ mọc um tùm không người chăm sóc- Cảnh Trương Sinh lập đàn tràng giải oan và cảnh Vũ Nương hiện về trong chốc lát rồi chia tay, để lại Trương Sinh chìm trong nỗi hối hận.