Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
REFER
- Thuộc địa, nửa phong kiến thực chất là một nước thuộc địa nhưng chế độ phong kiến vẫn được duy trì làm tay sai cho thực dân trong việc áp bức bóc lột nhân dân.
- Việt Nam bị biến thành nước thuộc địa, nửa phong kiến vào năm 1884, khi triều đình kí kết hiệp ước Patonot (6/6/1884) với Pháp.
tham khảo
-
Thuộc địa, nửa phong kiến thực chất là một nước thuộc địa nhưng chế độ phong kiến vẫn được duy trì làm tay sai cho thực dân trong việc áp bức bóc lột nhân dân.
- Việt Nam bị biến thành nước thuộc địa, nửa phong kiến vào năm 1884, khi triều đình kí kết hiệp ước Patonot (6/6/1884) với Pháp.
Quá trình đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ thực dân Pháp của triều đình nhà Nguyễn diễn tiến như sau:
Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) => Hiệp ước Giáp Tuất (1874) => Hiệp ước Hácmăng (1883) => Hiệp ước Patơnốt (1884).
Với Hiệp ước Patơnốt đã đánh dấu Việt Nam không còn là một nước phong kiến độc lập mà đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Triều đình mặc dù có quyền cai quản Trung Kì nhưng chỉ là bề ngoài, thực tế tất cả các chính sách: kinh tế, chính trị, đối ngoại, quân sự,…phải thông qua Pháp.
Đáp án cần chọn là: B
Vua nhà Nguyễn còn có suy nghĩ bảo thủ ,vì lợi ích của dòng họ mà cầu cứu ngoại bang cõng rắn cắn gà nhà, chỉ muốn cầu hòa với pháp ,đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân triều đình nhà nguyễn bạc nhược bất lực với thực dân pháp , chưa có biện pháp ứng xử khôn khéo hiệu quả với pháp .thực tế không phải nhà nguyễn buông súng đầu hang từ đầu ,không phải tất cả các vua nhà nguỹen đều bạc nhược chúng ta có quyền nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau ,dù đã có công nhưng không thể phủ nhận trách nhiệm của nhà nguyễn trong việc biến nước ta trở thành nước thuộc địa
Trung Quốc bắt đầu chế độ nửa phong kiến, nửa thuộc địa từ sau chiến tranh thuốc phiện 1840 cho đến trước khi thành lập nước CHND Trung Hoa năm 1949. Vào lúc này, Trung Quốc còn triều đình Mãn Thanh, còn quân đội, nhưng đất nước đã trở thành cái bánh ngọt cho các nước đế quốc sâu xé như Anh, Pháp, Mỹ... Vì đất nước Trung Quốc rộng lớn và không muốn tranh giành giữa các nước đế quốc với nhau, các nước này đã âm thầm chia cắt Trung Quốc ra để dễ cai trị và không đụng chạm đến quyền lợi của nhau.
Trung Quốc bắt đầu chế độ nửa phong kiến, nửa thuộc địa từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện năm 1840 cho đến trước khi thành lập nước CHND ( Cộng Hòa Nhân Dân ) Trung Hoa năm 1949. Vào lúc này, Trung Quốc còn triều đình Mãn Thanh, còn quân đội, nhưng đất nước đã trở thành cái bánh ngọt cho các nước đế quốc sâu xé như Anh, Pháp, Mỹ... Vì đất nước Trung Quốc rộng lớn và không muốn tranh giành giữa các nước đế quốc với nhau, các nước này đã âm thầm chia cắt Trung Quốc ra để dễ cai trị và không đụng chạm đến quyền lợi của nhau.
nước thuộc địa nửa phong kiến là một đất nước mà nhân dân ở dất nước đó phải chịu một lúc hai ách thống trị.Đó là một đát nước do vưa đứng đầu(chế độ phong kién ),nhưng ko có quyền hành cai trị đất nước ,họ chỉ là bù nhìn ,tay sai cho thực dân,.Và một tên kai trị nữa đó chnhs là bọn thực dân,chúng chiếm đất nước đó và bắt đầu tận dụng khai thác tài nguyên sức lao động của những ng dân ở dát nước đó ,,ng dân phải đóng thuế cho cả bọn thực dân và bọn phong kiến
Chế độ thuộc địa nửa phong kiến là chế độ mà ở đó tồn tại đan xen cả hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa, khi ở đó có sự phát triển kinh tế tư bản, có giai cấp tư sản, công nhân và có sự tồn tại (không mất đi) của hình thái xã hội phong kiến khi giai cấp phong kiến, địa chủ vẫn còn nắm quyền thống trị (dù chỉ là hình thức) và bóc lột nông dân. Điển hình là xã hội Việt Nam dưới thời thực dân Pháp thống trị.
*Trước khi Pháp xâm lược
Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến trên tất cả các mặt :chính trị:nhà Nguyễn xây dựng một chính quyền chuyên chế độc đoán, tăng cường bảo vệ quyền lợi của dòng họ, lấy chỗ dựa là địa chủ, cường hào. kinh tế thì sa sút, công thương nghiệp bế tắc, xã hội mâu thuẫn,nhũng cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ...Những chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Nguyễn đã đặt nước ta vào tình thế hết sức bất lợi trước sự xâm lược của tư bản phương tây:tài lực, vật lực khánh kiệt, lòng dân li tán, binh sĩ bạc nhược, kém cỏi...Những bài học về "khoan thư sức dân" "thực túc binh thường" của các thế hệ trước , thì nhà Nguyễn đều không đáp ứng được vì thế khi Pháp xân lược thì quân và dân của nhà đã hết, sức đã kiệt, nhà Nguyễn không phát động được 1 cuộc kháng chiến toàn dân. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến Việt Nam rơi vào tay Pháp.
=> như vậy trách nhiệm của nhà Nguyễn với tư cách của một triều đại lãnh đạo quản lí đất nước trước nguy cơ xâm lược từ bên ngoài đã không có những biện pháp để nâng cao sức mạnh tự vệ mà còn thi hành những chính sách thiển cận,sai lầm làm cho tiềm lực quốc gia suy kiệt, hao mòn sức dân không còn khả năng phòng thủ đất nước, tạo điều kiện cho Pháp dẩy mạnh xâm lược
*Khi Pháp vào xâm lược nhà Nguyễn với tư cách là người đứng ra lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến đã tiếp tục mắc phải những sai lầm trong đường lối đánh giặc đưa đến hậu quả nước ta rơi vào tay Pháp
-Ngay từ đầu trước cuộc xâm lăng của kẻ thù, triều đình đã có ý thức chuẩn bị kháng chiến nhưng sự chuẩn bị này lại chậm trễ, bị động, thiếu tích cực và trong quá trình kháng chiến triều đình có tư tưởng ngại địch, sợ địch không chủ động tấn công nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh giặc (dẫn chứng)
-Triều đình đã sử dụng đường lối thủ để hoà, ảo thưởng về kẻ thù, trông chờ vào lương tâm, hảo ý của địch nên đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác xuất phát từ những toan tính ích kỉ muốn bảo vệ quyền lợi dòng họ nên từ chỗ kháng cự yếu ớt đến đầu hàng(d/c: lần lượt kí các bản hiệp ước đầu hàng)
-Triều đình đã không biết phát huy cuộc kháng chiến toàn dân không phối hợp với nhân dân đánh giặc đến cùng mà đã từng bước bỏ rơi, ngăn cản cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống Pháp.
-Triều đình sai lầm trong chủ trương cầu viện bên ngoài.
- Triều đình tiếp tục duy trì đường lối bảo thủ, khước từ mọi đề nghị canh tân , đổi mới đất nước.
Với hiệp ước Hác-măng (1883) và Patonốt (1884) đã đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình phong kiến nước ta trước thế lực xâm lăng, kết thúc giai đoạn tồn tại của nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập, trở thành một nước nửa thuộc địa nửa phong kiến, triều đình được cai quản ở Trung Kì nhưng thực chất mọi việc đều phải thông qua Pháp.