Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
tham khảo
Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, truyền thống đó lại trỗi dậy, tạo thành sức mạnh vô địch đập tan bè lũ cướp nước và bán nước, bảo vệ sự trường tồn của đất nước. Lịch sử chỉ ra rằng, để truyền thống yêu nước trở thành mạch nguồn sức mạnh, giai cấp lãnh đạo phải có đường lối chính trị đúng đắn, tin vào sức mạnh của quần chúng, lấy lợi ích của dân tộc làm thượng tôn, thực sự là ngọn cờ dẫn dắt, tập hợp toàn dân tộc tạo thành một khối thống nhất chống lại kẻ thù chung. Ngược lại, nếu truyền thống yêu nước không được khơi dậy và phát huy trở thành sức mạnh của dân tộc thì mất nước là điều khó tránh khỏi. Thực tế bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19, thời Nguyễn là một minh chứng.
Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Với truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực cùng quan quân triều đình hoặc tự mình đứng lên chống thực dân Pháp.
Ngay từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, nhân dân nơi đây, đặc biệt là các đội dân binh đã luôn tích cực ủng hộ, phối hợp với quân triều đình do danh tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy, chống lại quân xâm lược. Khi thực dân Pháp không thực hiện được âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”, buộc phải chuyển hướng tiến đánh Nam Kỳ (tháng 2-1859), đông đảo nhân dân Nam Kỳ đã tích cực tham gia chống Pháp, kể cả sau khi triều đình ký với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (năm 1862) thừa nhận việc cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ thuộc nước Pháp. Quân Pháp luôn phải đối mặt với những “trung tâm kháng chiến ở khắp mọi nơi, chia nhỏ ra vô cùng, hầu như có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến”[1].
Sau khi chiếm xong Nam Kỳ (năm 1867), thực dân Pháp hai lần đánh ra Bắc Kỳ vào các năm 1873, 1882-1883. Năm 1874, triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp đối với 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau khi đánh thẳng vào Huế, đổ bộ lên cửa Thuận An, thực dân Pháp từng bước gây áp lực buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Hác-măng (ngày 25-8-1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (ngày 6-6-1884). Đến đây, triều đình nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp xâm lược. Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ta vẫn tiếp tục dâng cao và phát triển sang một giai đoạn mới: Chống Pháp đi đôi với việc chống triều đình đầu hàng. Bất chấp sức mạnh của kẻ thù và sự phản kháng của triều đình Huế, hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc tiếp tục vùng lên chống Pháp. Bên cạnh đó là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, tất cả đều chung một mục đích đứng dậy chống giặc, cứu nước.
Như vậy, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược của triều đình nhà Nguyễn ngay từ đầu đã luôn có sự ủng hộ, phối hợp của nhân dân. Trên thực tế, quan quân nhà Nguyễn cũng đã giành được một số thắng lợi. Cuộc chiến đấu ở mặt trận Đà Nẵng đã gây cho Pháp nhiều tổn thất, buộc chúng phải từ bỏ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và chuyển hướng vào Gia Định. Tại Gia Định, từ giữa tháng 2 đến tháng 3-1859, quân dân ta tiếp tục gây cho Pháp nhiều khó khăn, buộc chúng phải rút đại bộ phận ra ứng cứu cho lực lượng nguy khốn ở Đà Nẵng. Đáng kể nhất là chiến thắng trong hai trận Cầu Giấy (ngày 21-12-1873 và 19-5-1883), quân triều đình do Hoàng Tá Viêm chỉ huy phối hợp với quân Lưu Vĩnh Phúc chiến đấu đập tan hai cuộc hành quân của Pháp, hai tên chỉ huy là trung tá F.Garnier và đại tá H.Rivière tử trận.
Sau mỗi thắng lợi, quân dân ta phấn khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt quân xâm lược. Bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, phong trào chống Pháp nổi lên khắp nơi, như: Trương Định ở Gò Công; Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Hà Tiên; Thiên Hộ Dương (Vũ Duy Dương) ở Đồng Tháp Mười; Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi khởi xướng với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu, như; Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên), Khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh); các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân... Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở thành ngọn cờ quy tụ, đoàn kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước.
Trong khi đó, đối lập với phong trào đấu tranh của nhân dân, triều đình nhà Nguyễn với tư tưởng “chủ hòa” chi phối đã không dám hiệu triệu quan quân và đông đảo nhân dân thừa thắng xốc tới, trái lại còn ra lệnh cho quan quân lui binh và từng bước bắt tay hòa hoãn, ký với Pháp những điều ước bất lợi, đi đến đầu hàng Pháp, chống lại dân, từ bỏ vai trò lãnh đạo, bỏ rơi, thậm chí ngăn cản, phá hoại phong trào chống Pháp của nhân dân. Nhiều đề nghị cải cách nhằm canh tân đất nước, đưa đất nước thoát khỏi họa xâm lăng bị triều đình Nguyễn khước từ. Những vấn đề cốt tử để giữ nước như cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của nhân dân, canh tân đất nước, chấn chỉnh quân đội, mở rộng giao lưu với các nước văn minh… đã không được triều đình Nguyễn thực hiện. Thái độ, hành động đó của triều đình nhà Nguyễn thể hiện rõ sự suy yếu, mất lòng dân, không quy tụ và phát huy được truyền thống yêu nước bất khuất của nhân dân dưới ngọn cờ chống Pháp.
Mặc dù nhân dân khắp từ Nam chí Bắc liên tục vùng lên chiến đấu và thực dân Pháp phải mất gần 4 thập kỷ (1858-1896) mới hoàn thành công cuộc đánh chiếm và bình định Việt Nam, nhưng do các phong trào đấu tranh chủ yếu tự phát, thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất, nên chưa thúc đẩy, động viên và khai thác triệt để sức mạnh của dân tộc. Dù đã viết nên những trang sử hết sức oanh liệt, nhưng cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn đã “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực”[2]. Ngoài những nguyên nhân khách quan của thời đại, đây chính là nguyên nhân chủ quan, cơ bản, có vai trò quyết định nhất, thể hiện trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước; đồng thời cũng là bài học sâu sắc về đường lối cứu nước nhằm quy tụ, cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc.
Từ bài học lịch sử trong cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19, để khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam-ngọn cờ quy tụ, tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (năm 1930) và đóng vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ giữa thế kỷ 19 tuy diễn ra liên tục nhưng đều thất bại; nguyên nhân là do chưa có một đội tiền phong lãnh đạo với đường lối chính trị đúng đắn, nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, chống lại kẻ thù chung. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học dựa trên cơ sở nền tảng lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, tạo nên một lực lượng to lớn và rộng khắp, anh dũng đấu tranh, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ đi lên CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành tất yếu, là cơ sở bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường; xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ mới, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá cách mạng với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc hòng hạ thấp, đi tới phủ nhận vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng... Chính vì vậy, cần tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam là một tất yếu khách quan, là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
Từ bài học lịch sử của cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 và thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, để Đảng ta tiếp tục làm tròn sứ mệnh cao cả của mình trước dân tộc, trước nhân dân, là ngọn cờ tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, của nhân dân. Đặc biệt, trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, cùng với phát huy nội lực, cần tiếp tục kiên định thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Muốn vậy, phải chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”. Cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X cùng các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về công tác xây dựng Đảng, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Hai là, củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy ý nghĩa to lớn, quyết định của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện đánh giặc “toàn dân”, “toàn diện”. Một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 chính là do triều đình nhà Nguyễn đã không quy tụ và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết, truyền thống yêu nước của nhân dân. Chính vì vậy, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất với nhiều hình thức, biện pháp phong phú, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đảng xác định việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; nguồn sức mạnh tổng hợp, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, từ đó phát huy cao độ lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân, toàn quân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bằng sức mạnh tổng hợp đó, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và giành những thắng lợi quyết định cả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để củng cố và phát huy vai trò của MTTQ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về vị trí, tầm quan trọng của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Quan tâm xây dựng MTTQ Việt Nam và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, thực sự là ngọn cờ tập hợp, dẫn dắt quần chúng và làm tốt chức năng phản biện xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội và củng cố mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc. Đối với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Phong trào Thi đua Quyết thắng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực công tác, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.
Ba là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh, củng cố “thế trận lòng dân”, thực hiện “quân với dân một ý chí”
Từ những bài học lịch sử trong quá khứ, trong đó có bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược thời Nguyễn, có thể khẳng định, nền QPTD và thế trận chiến tranh nhân dân (CTND) là yếu tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát huy tinh thần yêu nước, giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Chính vì vậy, xây dựng nền QPTD, thế trận CTND vững mạnh là chủ trương chiến lược xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta; là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt. Đó cũng chính là việc “lo giữ nước từ khi nước chưa nguy” đã được cha ông ta thực hiện thành công trong lịch sử.
Trong những năm qua, trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về xây dựng nền QPTD, thế trận CTND, như: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội XII của Đảng… các cấp, các ngành, các địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền QPTD gắn với thế trận CTND ngày càng vững chắc. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn tiếp theo, cần tiếp tục xây dựng khu vực phòng thủ trên từng địa bàn chiến lược theo hướng “vững toàn diện, mạnh trọng điểm”; xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân, trong đó đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác dân vận, tạo cơ sở để xây dựng mối quan hệ gắn bó đoàn kết quân-dân, thực hiện “quân với dân một ý chí”. Quán triệt, triển khai thực hiện tốt nội dung chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng Việt Nam. Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân, nhất là Quân đội nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy sức mạnh toàn dân, toàn xã hội, gắn với thế trận QPTD; có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phải được chuẩn bị từ thời bình, có khả năng sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận CTND bảo vệ Tổ quốc khi có chiến tranh xảy ra, bảo đảm giành thắng lợi trong mọi tình huống.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia cho toàn quân, toàn dân
Ý thức sâu sắc về vai trò và sức mạnh của truyền thống yêu nước trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Yêu nước không chỉ ở nhận thức, ở khẩu hiệu tuyên truyền chung chung mà phải thể hiện ở hành động thiết thực, cụ thể. Người yêu cầu: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[3]; phải “đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”[4].
Làm theo tư tưởng của Người, trong bối cảnh tình hình hiện nay, để tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, không thể không khơi dậy và nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc về đất nước Việt Nam tươi đẹp, về trang sử hào hùng của dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại trong đông đảo các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, cũng thẳng thắn nhìn nhận những bài học và nguyên nhân không thành công về việc khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước trong quá khứ để rút kinh nghiệm cho hiện tại và tương lai.
Để thực hiện điều đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước trong đông đảo nhân dân, cán bộ và bộ đội bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động, cụ thể, phù hợp với từng đối tượng, trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục trong nhà trường, giáo dục thông qua các tổ chức chính trị-xã hội và các phương tiện truyền thông; qua đó, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, thực hiện chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Mỗi người dân cần được bồi dưỡng và nâng cao ý thức về việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xác định đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là trách nhiệm cao cả đối với non sông đất nước. Toàn quân cần thực hiện có hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Từ đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng và tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, biến thành sức mạnh vật chất to lớn, sẵn sàng cùng toàn dân đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 thời Nguyễn, bài học khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tiếp tục phát huy khí phách quật cường, truyền thống yêu nước anh dũng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Biện pháp đấu tranh của các cuộc cách mạng cuối TK XIX: Khởi nghĩa vũ trang
Biện pháp đấu tranh của các cuộc cách mạng đầu TK XX: Vũ trang bạo động, cải cách Duy Tân, mở trường dạy học, xuất dương cầu viện, phong trào đấu tranh của binh lính...
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước Ácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến công trại lính Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc đó Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và thắng lợi (1911). Ông về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế (1908).
Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau.
- Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
- Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)... Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt, Hưng Nam).
- Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát tên trùm mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố phong trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất. Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng thành nhân”.
Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã Yên Bái với cuộc tiến công trại lính Pháp của quân khởi nghĩa. Ở một số địa phương như Thái Bình, Hải Dương... cũng có những hoạt động phối hợp.
Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hô vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén, tháng 6-1911 Nguyễn Ái Quốc đã lên đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, xem họ làm như thế nào, để rồi trở về nước giúp đồng bào cởi ách xiềng xích nô lệ.
Với tên gọi Văn Ba, Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước tư bản phát triển như Mỹ, Pháp, Anh. Người nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn cách mạng đã có trên thế giới như cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp, đồng thời tham gia lao động và đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ các màu da. Người nhận thấy các cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp "chưa đến nơi" vì quần chúng nhân dân vẫn đói khổ.
Vào cuối năm 1917, giữa lúc Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Người trở lại nước Pháp. Tại đây, Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước với tờ báo Việt Nam hồnđể tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp. Trong những ngày hoạt động cách mạng sôi nổi đó, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ làm chấn động toàn cầu. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt, Người hướng đến ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị Vécxay (1919) để phân chia quyền lợi. Thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc đưa đến Hội nghị này bản yêu sách đòi các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách đó không được Hội nghị Vécxay chú ý đến, nhưng được báo chí tiến bộ Pháp công bố rộng rãi và gây ảnh hưởng chính trị vang dội. Đó là đòn tiến công trực diện đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc vào bọn trùm đế quốc. Kết luận quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc rút ra là: Những lời tuyên bố dân tộc tự quyết của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân tộc bị áp bức muốn được độc lập tự do thực sự, trước hết phải dựa vào lực lượng của bản thân mình, phải tự mình giải phóng cho mình.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Quốc tế Cộng sản do Lênin đứng đầu thành lập (1919) và tuyên bố kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ: độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Sau này Người viết: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!".
Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba"
. Sđd, 2002, t.10, tr. 127. .
Cuộc hành trình dài ngày, qua nhiều đại dương và lục địa là một cuộc khảo sát vô cùng phong phú, đã đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một tình cảm cách mạng sâu sắc, một vốn tri thức lớn, làm cơ sở cho Người đi đến một khám phá, một sự lựa chọn chính xác con đường giải phóng dân tộc trong thời đại mới.
Tháng 12-1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours) đã nảy ra cuộc tranh luận gay gắt về việc gia nhập Quốc tế thứ ba hay ở lại Quốc tế thứ hai. Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản; mở đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam. Bằng thiên tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản... Người nói: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"
. Sđd, 2002, t.9, tr. 314. .
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam.
Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên hiệp thuộc địa nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Hội quyết định xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria), do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút…
Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp ở Mácxây, Nguyễn Ái Quốc trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "Chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa" và kiến nghị thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa trực thuộc Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Kiến nghị đó được Đại hội chấp nhận. Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa được thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông Dương.
Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài đăng trên các báo Người cùng khổ (Le Paria), Nhân đạo (L' Humanité) của Đảng Cộng sản Pháp, Đời sống công nhân (La Vie ouvrière) của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp. Người viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la colonisation Franỗaise) và được xuất bản lần đầu tiên ở Pari năm 1925. Bằng những dẫn chứng cụ thể, sinh động, tác phẩm đã tố cáo trước dư luận Pháp và thế giới những tội ác tày trời của bọn thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa. "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"
. Sđd, 2002, t.1, tr. 298. .
Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp công nhân ở "chính quốc" và nhân dân lao động ở các thuộc địa. Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở các nước "chính quốc" có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Phải thực hiện sự hợp tác chặt chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng.
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Phải "làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản"
. Sđd, 2002, t.2, tr. 124. .
Các dân tộc thuộc địa có sẵn trong bản thân mình một sức mạnh vô cùng to lớn. Khi hàng triệu quần chúng ở các nước thuộc địa đã hiểu được giá trị của đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế và quyết tâm vùng lên chiến đấu thì chủ nghĩa đế quốc nhất định bị đánh đổ.
Bản án chế độ thực dân Pháp đã vạch trần bản chất phản động của đế quốc Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh tinh thần dân tộc, hướng nhân dân các nước thuộc địa tới con đường giải phóng dân tộc của thời đại cách mạng vô sản. Vận dụng công thức của C. Mác: Công cuộc giải phóng của anh em (thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em, và góp phần vào việc thực hiện sự liên minh giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động Pháp với các dân tộc thuộc địa nhằm đánh đổ kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ, nhờ tác phẩm đó và các bài viết khác của Nguyễn Ái Quốc trong thời kỳ ấy mà hướng tới con đường cách mạng của Người để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva để tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Lênin. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Người tham gia Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và các đại hội của Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ. Trong hai bản tham luận quan trọng đọc tại Hội nghị Quốc tế nông dân và Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập hai vấn đề lớn sau:
1. Tăng cường mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.
2. Vấn đề nông dân ở các nước thuộc địa.
Người thẳng thắn phê bình một số đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa, chưa biết kết hợp phong trào cách mạng ở chính quốc và cách mạng ở các nước thuộc địa để thành lập một mặt trận đấu tranh chung. Đối với vấn đề nông dân, Người chỉ rõ rằng: Nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề, nạn đói luôn luôn xảy ra, sự phẫn uất ngày càng lên cao. "Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng"
. Sđd, 2002, t.1, tr. 289. .
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây Người cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v., thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khoá học một số được chọn đi học ở trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, một số được cử đi học trường quân sự Hoàng Phố, còn phần lớn trở về nước để "truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân"
. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1994, tr. 61. .
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành sách với tên gọi là Đường kách mệnh. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Người nêu chân lý "muốn sống, phải làm cách mệnh", "cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người". Việc giải phóng dân tộc, chủ yếu là do nhân dân ta tự làm lấy, vì vậy phải làm cho mọi người Việt Nam hiểu rõ "vì sao làm cách mệnh", "không làm không được". Đường kách mệnh giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), và khẳng định rằng chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là triệt để nhất, vì thế cách mạng Việt Nam cần phải đi theo con đường cách mạng của học thuyết Mác - Lênin mới thành công. Đường kách mệnh nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc; lực lượng cách mạng bao gồm "sỹ, nông, công, thương", trong đó công nông là "chủ cách mệnh", là "gốc cách mệnh", còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị đế quốc áp bức, song không cực khổ bằng công nông nên ba hạng ấy chỉ là "bầu bạn cách mệnh của công nông".
Đường kách mệnh đã chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy phải động viên, tổ chức và lãnh đạo đông đảo quần chúng vùng lên "đánh đuổi tụi áp bức mình đi". Người phê phán hành động ám sát cá nhân và những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa khác chỉ "xúi dân bạo động mà không biết cách tổ chức, làm cho dân quen thói ỷ lại mà quên tính tự cường". Quần chúng một khi được giác ngộ, có tổ chức và lãnh đạo sẽ là lực lượng cách mạng vô địch.
Đường kách mệnh cũng còn chỉ rõ rằng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cần được sự giúp đỡ quốc tế, nhưng "muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã". Cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ mật thiết với nhau và ảnh hưởng thúc đẩy nhau trong quan hệ bình đẳng. "An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ".
Đường kách mệnh khẳng định: muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, "Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam". "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr. 257. .
Đường kách mệnh dành một phần thích đáng để giới thiệu các tổ chức chính trị của Quốc tế Cộng sản như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên... và hướng dẫn nhân dân Việt Nam tham gia các tổ chức đó.
Đường kách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tháng 4-1927, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng Trung Quốc, đàn áp những đảng viên cộng sản và những người cách mạng. Nguyễn Ái Quốc phải rời Quảng Châu sang Liên Xô. Mùa thu năm 1928, Người về Thái Lan tiếp tục công việc chuẩn bị thành lập Đảng.
Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng cứu nước giải phóng dân tộc theo con đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc ngày càng chiếm ưu thế.
Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện chủ trương "Vô sản hóa", đưa hội viên của mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền trong nước, cùng sống và làm việc với công nhân, đồng thời cũng là phương thức truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh .
Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã phải "chọc thủng lưới sắt của bọn thực dân Pháp" mới đến được với nhân dân Việt Nam ta.
Cùng với cuộc đấu tranh chống lại chính sách khủng bố của bọn đế quốc, những người theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng của học thuyết Mác-Lênin còn phải đấu tranh với các đề xướng và vận động thành lập các chính đảng quốc gia, thành lập "khối dân tộc". Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng kiên quyết đấu tranh chống lại quan điểm lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh, thuyết "trực trị" của Nguyễn Văn Vĩnh. Cuộc đấu tranh chống lại đường lối của Việt Nam Quốc dân Đảng, một đường lối dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản không kém phần gay gắt.
Lập trường giải phóng dân tộc đúng đắn của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thắng lập trường giải phóng dân tộc tư sản. Nó đã giáo dục, giác ngộ nhiều người yêu nước chân chính theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, đào tạo và rèn luyện họ thành những chiến sĩ cách mạng trung thành làm nòng cốt cho việc thành lập đảng cộng sản.
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với việc xây dựng các tổ chức cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên của Hội tăng nhanh. Năm 1928, có 300 hội viên, năm 1929, có 1.700 hội viên. Tổ chức công hội cũng đã được xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ. Một số đảng viên tiên tiến trong Tân Việt cũng ngả theo Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Nhiều người đã trở thành hội viên của Hội.
Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức, vận động nhân dân đấu tranh đã dấy lên một phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân.
Cuộc đấu tranh của công nhân xuất hiện ngay từ khi giai cấp công nhân ra đời. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào đã diễn ra với những hình thức sơ khai như bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký, đưa đơn phản kháng, rồi tiến dần lên những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi công. Năm 1907, đã nổ ra cuộc bãi công đầu tiên của 200 công nhân viên chức hãng Liên hiệp Thương mại Đông Dương (LUCI) ở Hà Nội. Năm 1912, có cuộc bãi công của công nhân Ba Son và cuộc bãi khóa của học sinh trường Bách nghệ Sài Gòn... Ngoài ra, công nhân còn tham gia các phong trào yêu nước khác: công nhân mỏ than Đông Triều tham gia đội nghĩa quân của lãnh binh Pha và lãnh binh Hy (1892); công nhân làm đường Phủ Lạng Thương - Lạng Sơn tham gia phong trào khởi nghĩa Yên Thế, tập kích các đạo quân đóng dọc đường sắt và nhà ga (1894); những bồi bếp và công nhân làm trong quân đội Pháp tham gia vụ đầu độc binh lính và sĩ quan Pháp ở Hà Nội (1908); công nhân tham gia khởi nghĩa Duy Tân ở Huế (1916); trong cuộc binh biến ở Thái Nguyên, công nhân tham gia trực tiếp chiến đấu, hoặc rèn vũ khí cho nghĩa quân (1917).
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân ở nước ta ngày càng đông đảo và tập trung hơn. Trong những năm 1919-1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân viên chức các sở công thương tư nhân Bắc Kỳ, công nhân các lò nhuộm ở Sài Gòn, Chợ Lớn (1922), các nhà máy dệt, rượu, xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương (1924). Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của hơn 1.000 công nhân Xưởng sửa chữa tàu thuỷ Ba Son, Sài Gòn (8-1925) do Tôn Đức Thắng tổ chức, không chịu chữa chiến hạm Misơlê (Michelet) để thực dân Pháp chở quân đi đàn áp phong trào nổi dậy chống xâm lược của nhân dân Trung Quốc tại các thành phố có tô giới của đế quốc. Cuộc bãi công nổ ra với yêu sách đòi tăng lương 20%, thu nhận những công nhân bị sa thải được trở lại làm việc. Cuộc bãi công được công nhân nhiều xưởng ở Sài Gòn - Chợ Lớn ủng hộ. Chủ hung hãn đe dọa, nhưng không khuất phục được, cuối cùng chúng phải nhượng bộ, chịu tăng 10% lương cho công nhân. Mặc dù vậy, sau khi trở lại làm việc công nhân Ba Son còn tìm cách lãn công, kéo dài thời hạn sửa chữa, làm cho chiến hạm Misơlê phải nằm chờ 4 tháng trời mới nhổ neo đi lên hướng Bắc được. Ngoài ra, trong phong trào dân chủ những năm 1925-1926, công nhân đã tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình, đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh, v.v..
Nhìn chung, phong trào công nhân những năm 1919-1925 đã có bước phát triển mới so với trước chiến tranh. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn.
Từ năm 1926 đến năm 1929, phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong những năm 1926-1927, mỗi năm có hàng chục cuộc bãi công. Trong hai năm 1928-1929 nổ ra hơn 40 cuộc đấu tranh, tiêu biểu là các cuộc bãi công ở Nhà máy xi măng Hải Phòng, Nhà máy sợi Nam Định, Nhà máy diêm và Nhà máy cưa Bến Thủy, Xưởng sửa chữa ô tô Avia Hà Nội, Nhà máy sợi Hải Phòng, Mỏ than Hòn Gai, Nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh), Xưởng sửa chữa tàu thuỷ Ba Son (Sài Gòn), Đồn điền cao su Phú Riềng, v.v.. Các cuộc đấu tranh đó đã kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với những khẩu hiệu chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một nhà máy, đồn điền, bước đầu có sự liên kết nhiều ngành, nhiều địa phương. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt tuy chưa được đều khắp. Phong trào phát triển mạnh mẽ, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung.
Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời
Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách mạng. Yêu cầu khách quan đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hoá tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Phong trào Vô sản hoá (1928) của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên diễn ra mạnh nhất là ở Bắc Kỳ, làm cho phong trào cách mạng ở đây phát triển sôi nổi hơn, yêu cầu thành lập đảng cộng sản cũng xuất hiện sớm hơn. Cuối tháng 3-1929, một số phần tử tiên tiến họp ở nhà số 5 Đ, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên, gồm 7 đảng viên
Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kim Tôn. , do Trần Văn Cung làm Bí thư. Chi bộ tích cực chuẩn bị để đi đến thành lập một đảng cộng sản thay thế cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Tháng 5-1929, tại Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp tại Hương Cảng đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến thành lập đảng cộng sản. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự dẫn đầu kiên quyết đấu tranh đòi thành lập ngay một đảng cộng sản. Yêu cầu đó không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc Kỳ liền rút khỏi Đại hội về nước.
Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa liềm và cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.
Trước nhu cầu của phong trào cách mạng và với sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng, một số hội viên tiên tiến trong bộ phận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Trung Kỳ và Nam Kỳ vạch ra kế hoạch tổ chức đảng cộng sản. Ngày 25-7-1929, các đồng chí trong bộ phận Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc gửi Đông Dương Cộng sản Đảng một bức thư thông báo rằng họ quyết định lập một đảng cộng sản bí mật, còn ""Thanh niên"... giữ nguyên để cải tổ dần..."
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr. 536. . Một số hội viên giác ngộ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc được tổ chức thành một chi bộ với danh nghĩa chi bộ của An Nam Cộng sản Đảng. Một số chi bộ cộng sản lần lượt thành lập ở Nam Kỳ. Theo Hồng Thế Công . Đồng chí Hà Huy Tập. , An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8 năm 1929 và khoảng tháng 11-1929, An Nam Cộng sản Đảng họp Đại hội tại Sài Gòn để thông qua đường lối chính trị, Điều lệ Đảng và lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tuy hai tổ chức cộng sản trên hoạt động riêng rẽ, thậm chí còn công kích lẫn nhau, song từ sự ra đời Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đến sự xuất hiện các tổ chức cộng sản là một xu thế phát triển khách quan của phong trào cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
Cùng với sự phân hoá trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách mạng Đảng cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời là kết quả của sự phân hoá nội bộ các nhóm tiểu tư sản yêu nước trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối cách mạng vô sản và tư sản trong phong trào dân tộc Việt Nam. Tiền thân của Tân Việt cách mạng Đảng là Hội Phục Việt (1925), đổi thành Hội Hưng Nam (1926). Để giao thiệp với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tháng 7-1926 Hội Hưng Nam đổi thành Việt Nam cách mạng Đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí Hội (7-1927). Trong khoảng thời gian 1926-1928, nhiều lần Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Việt Nam cách mạng Đảng bàn việc hợp nhất nhưng không đi đến kết quả. Vì thế, ngày 14-7-1928 Việt Nam cách mạng đồng chí Hội họp Đại hội ở Huế, quyết định tổ chức ra một đảng "tự lập" lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng. Tân Việt ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng phát triển, lý luận Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Tân Việt, cuốn hút nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến đi theo Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong nội bộ Tân Việt đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng cách mạng và cải lương, cuối cùng xu hướng cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã ngả sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Số tiên tiến còn lại chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng (6-1929) và An Nam cộng sản Đảng (8-1929) tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt, những đảng viên tiên tiến đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản.
Tháng 9-1929, họ công bố Tuyên đạt, nêu rõ "những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn"
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr. 404. . Đây là một chính đảng cách mạng vô sản. Mục tiêu của đảng là đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho xứ Đông Dương, xóa bỏ nạn người bóc lột người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính, tiến lên chế độ cộng sản chủ nghĩa. Theo kế hoạch, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn sẽ họp đại hội chính thức vào 1-1-1930 song trên đường đến địa điểm đại hội, các đại biểu đã bị địch bắt, song Đảng vẫn tích cực hoạt động.
Chỉ trong bốn tháng ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời, điều đó chứng tỏ xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở ở nhiều địa phương trong cả nước và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng. Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống cướp ruộng đất và phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương, tạo thành một làn sóng đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ khắp cả nước.
Tham khảo
- Mục đích: chống Pháp, chống triều đình phong kiến.
- Lãnh đạo: đều xuất thân từ các văn thân, sĩ phu, quan lại yêu nước.
- Lực lượng tham gia: đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân (có cả đồng bào dân tộc thiểu số).
- Quy mô: diễn ra lẻ tẻ, mang tính địa phương, chưa phát triển thành cuộc kháng chiến toàn quốc
- Hình thức: đấu tranh vũ trang, ít chú trọng đến công tác tuyên truyền, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị,...
- Tính chất: do hệ tư tưởng phong kiến chi phối, mang tính “Cần Vương”
- Kết quả: Đều thất bại
- Ý nghĩa: Đây là phong trào kháng chiến mạnh mẽ, thể hiện truyền thống yêu nước và khí phách anh hùng của dân tộc, tiêu biểu cho cuộc kháng chiến tự vệ của nhân dân ta cuối thế kỉ XIX, hứa hẹn một năng lực chiến đấu dồi dào trong cuộc đương đầu với thực dân Pháp, để lại nhiều tấm gương và bài học kinh nghiệm qúy báu.
tham khảo
Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, truyền thống đó lại trỗi dậy, tạo thành sức mạnh vô địch đập tan bè lũ cướp nước và bán nước, bảo vệ sự trường tồn của đất nước. Lịch sử chỉ ra rằng, để truyền thống yêu nước trở thành mạch nguồn sức mạnh, giai cấp lãnh đạo phải có đường lối chính trị đúng đắn, tin vào sức mạnh của quần chúng, lấy lợi ích của dân tộc làm thượng tôn, thực sự là ngọn cờ dẫn dắt, tập hợp toàn dân tộc tạo thành một khối thống nhất chống lại kẻ thù chung. Ngược lại, nếu truyền thống yêu nước không được khơi dậy và phát huy trở thành sức mạnh của dân tộc thì mất nước là điều khó tránh khỏi. Thực tế bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19, thời Nguyễn là một minh chứng.
Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Với truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực cùng quan quân triều đình hoặc tự mình đứng lên chống thực dân Pháp.
Ngay từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, nhân dân nơi đây, đặc biệt là các đội dân binh đã luôn tích cực ủng hộ, phối hợp với quân triều đình do danh tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy, chống lại quân xâm lược. Khi thực dân Pháp không thực hiện được âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”, buộc phải chuyển hướng tiến đánh Nam Kỳ (tháng 2-1859), đông đảo nhân dân Nam Kỳ đã tích cực tham gia chống Pháp, kể cả sau khi triều đình ký với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (năm 1862) thừa nhận việc cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ thuộc nước Pháp. Quân Pháp luôn phải đối mặt với những “trung tâm kháng chiến ở khắp mọi nơi, chia nhỏ ra vô cùng, hầu như có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến”[1].
Sau khi chiếm xong Nam Kỳ (năm 1867), thực dân Pháp hai lần đánh ra Bắc Kỳ vào các năm 1873, 1882-1883. Năm 1874, triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp đối với 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau khi đánh thẳng vào Huế, đổ bộ lên cửa Thuận An, thực dân Pháp từng bước gây áp lực buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Hác-măng (ngày 25-8-1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (ngày 6-6-1884). Đến đây, triều đình nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp xâm lược. Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ta vẫn tiếp tục dâng cao và phát triển sang một giai đoạn mới: Chống Pháp đi đôi với việc chống triều đình đầu hàng. Bất chấp sức mạnh của kẻ thù và sự phản kháng của triều đình Huế, hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc tiếp tục vùng lên chống Pháp. Bên cạnh đó là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, tất cả đều chung một mục đích đứng dậy chống giặc, cứu nước.
Như vậy, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược của triều đình nhà Nguyễn ngay từ đầu đã luôn có sự ủng hộ, phối hợp của nhân dân. Trên thực tế, quan quân nhà Nguyễn cũng đã giành được một số thắng lợi. Cuộc chiến đấu ở mặt trận Đà Nẵng đã gây cho Pháp nhiều tổn thất, buộc chúng phải từ bỏ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và chuyển hướng vào Gia Định. Tại Gia Định, từ giữa tháng 2 đến tháng 3-1859, quân dân ta tiếp tục gây cho Pháp nhiều khó khăn, buộc chúng phải rút đại bộ phận ra ứng cứu cho lực lượng nguy khốn ở Đà Nẵng. Đáng kể nhất là chiến thắng trong hai trận Cầu Giấy (ngày 21-12-1873 và 19-5-1883), quân triều đình do Hoàng Tá Viêm chỉ huy phối hợp với quân Lưu Vĩnh Phúc chiến đấu đập tan hai cuộc hành quân của Pháp, hai tên chỉ huy là trung tá F.Garnier và đại tá H.Rivière tử trận.
Sau mỗi thắng lợi, quân dân ta phấn khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt quân xâm lược. Bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, phong trào chống Pháp nổi lên khắp nơi, như: Trương Định ở Gò Công; Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Hà Tiên; Thiên Hộ Dương (Vũ Duy Dương) ở Đồng Tháp Mười; Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi khởi xướng với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu, như; Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên), Khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh); các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân... Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở thành ngọn cờ quy tụ, đoàn kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước.
Trong khi đó, đối lập với phong trào đấu tranh của nhân dân, triều đình nhà Nguyễn với tư tưởng “chủ hòa” chi phối đã không dám hiệu triệu quan quân và đông đảo nhân dân thừa thắng xốc tới, trái lại còn ra lệnh cho quan quân lui binh và từng bước bắt tay hòa hoãn, ký với Pháp những điều ước bất lợi, đi đến đầu hàng Pháp, chống lại dân, từ bỏ vai trò lãnh đạo, bỏ rơi, thậm chí ngăn cản, phá hoại phong trào chống Pháp của nhân dân. Nhiều đề nghị cải cách nhằm canh tân đất nước, đưa đất nước thoát khỏi họa xâm lăng bị triều đình Nguyễn khước từ. Những vấn đề cốt tử để giữ nước như cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của nhân dân, canh tân đất nước, chấn chỉnh quân đội, mở rộng giao lưu với các nước văn minh… đã không được triều đình Nguyễn thực hiện. Thái độ, hành động đó của triều đình nhà Nguyễn thể hiện rõ sự suy yếu, mất lòng dân, không quy tụ và phát huy được truyền thống yêu nước bất khuất của nhân dân dưới ngọn cờ chống Pháp.
Mặc dù nhân dân khắp từ Nam chí Bắc liên tục vùng lên chiến đấu và thực dân Pháp phải mất gần 4 thập kỷ (1858-1896) mới hoàn thành công cuộc đánh chiếm và bình định Việt Nam, nhưng do các phong trào đấu tranh chủ yếu tự phát, thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất, nên chưa thúc đẩy, động viên và khai thác triệt để sức mạnh của dân tộc. Dù đã viết nên những trang sử hết sức oanh liệt, nhưng cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn đã “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực”[2]. Ngoài những nguyên nhân khách quan của thời đại, đây chính là nguyên nhân chủ quan, cơ bản, có vai trò quyết định nhất, thể hiện trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước; đồng thời cũng là bài học sâu sắc về đường lối cứu nước nhằm quy tụ, cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc.
Từ bài học lịch sử trong cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19, để khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam-ngọn cờ quy tụ, tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (năm 1930) và đóng vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ giữa thế kỷ 19 tuy diễn ra liên tục nhưng đều thất bại; nguyên nhân là do chưa có một đội tiền phong lãnh đạo với đường lối chính trị đúng đắn, nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, chống lại kẻ thù chung. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học dựa trên cơ sở nền tảng lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, tạo nên một lực lượng to lớn và rộng khắp, anh dũng đấu tranh, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ đi lên CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành tất yếu, là cơ sở bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường; xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ mới, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá cách mạng với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc hòng hạ thấp, đi tới phủ nhận vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng... Chính vì vậy, cần tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam là một tất yếu khách quan, là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
Từ bài học lịch sử của cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 và thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, để Đảng ta tiếp tục làm tròn sứ mệnh cao cả của mình trước dân tộc, trước nhân dân, là ngọn cờ tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, của nhân dân. Đặc biệt, trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, cùng với phát huy nội lực, cần tiếp tục kiên định thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Muốn vậy, phải chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”. Cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X cùng các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về công tác xây dựng Đảng, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Hai là, củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy ý nghĩa to lớn, quyết định của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện đánh giặc “toàn dân”, “toàn diện”. Một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 chính là do triều đình nhà Nguyễn đã không quy tụ và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết, truyền thống yêu nước của nhân dân. Chính vì vậy, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất với nhiều hình thức, biện pháp phong phú, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đảng xác định việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; nguồn sức mạnh tổng hợp, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, từ đó phát huy cao độ lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân, toàn quân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bằng sức mạnh tổng hợp đó, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và giành những thắng lợi quyết định cả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để củng cố và phát huy vai trò của MTTQ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về vị trí, tầm quan trọng của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Quan tâm xây dựng MTTQ Việt Nam và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, thực sự là ngọn cờ tập hợp, dẫn dắt quần chúng và làm tốt chức năng phản biện xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội và củng cố mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc. Đối với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Phong trào Thi đua Quyết thắng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực công tác, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.
Ba là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh, củng cố “thế trận lòng dân”, thực hiện “quân với dân một ý chí”
Từ những bài học lịch sử trong quá khứ, trong đó có bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược thời Nguyễn, có thể khẳng định, nền QPTD và thế trận chiến tranh nhân dân (CTND) là yếu tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát huy tinh thần yêu nước, giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Chính vì vậy, xây dựng nền QPTD, thế trận CTND vững mạnh là chủ trương chiến lược xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta; là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt. Đó cũng chính là việc “lo giữ nước từ khi nước chưa nguy” đã được cha ông ta thực hiện thành công trong lịch sử.
Trong những năm qua, trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về xây dựng nền QPTD, thế trận CTND, như: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội XII của Đảng… các cấp, các ngành, các địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền QPTD gắn với thế trận CTND ngày càng vững chắc. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn tiếp theo, cần tiếp tục xây dựng khu vực phòng thủ trên từng địa bàn chiến lược theo hướng “vững toàn diện, mạnh trọng điểm”; xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân, trong đó đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác dân vận, tạo cơ sở để xây dựng mối quan hệ gắn bó đoàn kết quân-dân, thực hiện “quân với dân một ý chí”. Quán triệt, triển khai thực hiện tốt nội dung chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng Việt Nam. Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân, nhất là Quân đội nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy sức mạnh toàn dân, toàn xã hội, gắn với thế trận QPTD; có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phải được chuẩn bị từ thời bình, có khả năng sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận CTND bảo vệ Tổ quốc khi có chiến tranh xảy ra, bảo đảm giành thắng lợi trong mọi tình huống.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia cho toàn quân, toàn dân
Ý thức sâu sắc về vai trò và sức mạnh của truyền thống yêu nước trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Yêu nước không chỉ ở nhận thức, ở khẩu hiệu tuyên truyền chung chung mà phải thể hiện ở hành động thiết thực, cụ thể. Người yêu cầu: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[3]; phải “đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”[4].
Làm theo tư tưởng của Người, trong bối cảnh tình hình hiện nay, để tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, không thể không khơi dậy và nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc về đất nước Việt Nam tươi đẹp, về trang sử hào hùng của dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại trong đông đảo các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, cũng thẳng thắn nhìn nhận những bài học và nguyên nhân không thành công về việc khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước trong quá khứ để rút kinh nghiệm cho hiện tại và tương lai.
Để thực hiện điều đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước trong đông đảo nhân dân, cán bộ và bộ đội bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động, cụ thể, phù hợp với từng đối tượng, trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục trong nhà trường, giáo dục thông qua các tổ chức chính trị-xã hội và các phương tiện truyền thông; qua đó, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, thực hiện chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Mỗi người dân cần được bồi dưỡng và nâng cao ý thức về việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xác định đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là trách nhiệm cao cả đối với non sông đất nước. Toàn quân cần thực hiện có hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Từ đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng và tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, biến thành sức mạnh vật chất to lớn, sẵn sàng cùng toàn dân đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 thời Nguyễn, bài học khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tiếp tục phát huy khí phách quật cường, truyền thống yêu nước anh dũng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
TK
Thực tiễn lịch sử chứng minh, truyền thống yêu nước là sợi dây cốt lõi cố kết cộng đồng, tạo sức mạnh toàn dân tộc để chiến thắng các thế lực ngoại xâm. Tuy nhiên, để phát huy được sức mạnh này cần có đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức chỉ huy chặt chẽ, khoa học, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với xu thế thời đại. Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự trong sạch, vững mạnh, bài trừ tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong bộ máy chính quyền, nhằm củng cố sức mạnh Nhà nước, tăng cường niềm tin của nhân dân. Phải đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân, giữ vững mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà toàn dân tộc đã lựa chọn. Để làm được điều đó, Nhà nước ta cần tiến hành cải cách hành chính; hoàn thiện hành lang pháp lý; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ đức, đủ tài, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao tiềm lực kinh tế; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy mọi nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh đất nước. Đồng thời, có chiến lược tổng thể và các chính sách về việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực để tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
TK
Thực tiễn lịch sử chứng minh, truyền thống yêu nước là sợi dây cốt lõi cố kết cộng đồng, tạo sức mạnh toàn dân tộc để chiến thắng các thế lực ngoại xâm. Tuy nhiên, để phát huy được sức mạnh này cần có đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức chỉ huy chặt chẽ, khoa học, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với xu thế thời đại. Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự trong sạch, vững mạnh, bài trừ tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong bộ máy chính quyền, nhằm củng cố sức mạnh Nhà nước, tăng cường niềm tin của nhân dân. Phải đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân, giữ vững mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà toàn dân tộc đã lựa chọn. Để làm được điều đó, Nhà nước ta cần tiến hành cải cách hành chính; hoàn thiện hành lang pháp lý; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ đức, đủ tài, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao tiềm lực kinh tế; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy mọi nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh đất nước. Đồng thời, có chiến lược tổng thể và các chính sách về việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực để tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ý nghĩa của các cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX:
- Thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc của nhân dân ta
- Để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho các cuộc khởi nghĩa
- Góp phần làm chậm quá trình xâm lược và bình định của thực dân Pháp
- Có vị trí lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
Ý nghĩa : Chỉ trong bốn tháng ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời, điều đó chứng tỏ xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở thành tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở ở nhiều địa phương trong cả nước và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng. Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống cướp ruộng đất và phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương, tạo thành một làn sóng đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ khắp cả nước.