Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tăng trưởng kinh tế nhanh ở Việt Nam diễn ra trong suốt thập niên 90 và những năm đầu thập niên 2000 đã đem đến những kết quả ngoạn mục về giảm nghèo. Tuy nhiên trong giai đoạn này, sự giảm nghèo của nhóm đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra với tốc độ chậm hơn. Nghèo, tuổi thọ, tình trạng dinh dưỡng và những chỉ số đo mức sống khác của nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn ở mức thấp dù có rất nhiều chính sách đã được đưa vào thực hiện nhằm hỗ trợ các nhóm dân tộc này. Ở Việt Nam có 54 nhóm dân tộc sinh sống, trong đó người Kinh chiếm tới gần 87%. Trừ người Hoa, người Khơ-me và người Chăm, 50 nhóm dân tộc còn lại chủ yếu sinh sống ở vùng nông thôn hoặc miền núi xa xôi và chịu những bất lợi về xã hội và kinh tế ở những mức độ khác nhau. Tỉ lệ nghèo của nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số cao hơn 4,5 lần so với đồng bào người Kinh và Hoa. Nhóm đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tỉ lệ suy dinh dưỡng, mù chữ và bệnh tật cao hơn. Tuy chỉ chiếm 1/8 số dân cả nước, song các dân tộc thiểu số chiếm đến 40% tổng số người nghèo năm 2004. Một số cơ quan chính phủ dự báo rằng đến năm 2010, đồng bào dân tộc thiểu số sẽ chiếm hơn một nửa số người nghèo của Việt Nam.
Dân số đông và trẻ của Việt Nam:
Thuận lợi:
- Dân số đông có thể cung cấp nguồn lao động lớn cho các ngành công nghiệp và dịch vụ, giúp tạo ra sự đa dạng và linh hoạt trong lực lượng lao động.
- Dân số trẻ mang lại tiềm năng cho sự phát triển và hiện đại hóa của quốc gia, với khả năng học hỏi nhanh chóng và thích nghi với công nghệ mới.
Khó khăn:
- Dân số đông và trẻ cũng có thể tạo ra áp lực lớn trên các nguồn tài nguyên như giáo dục, y tế, việc làm và hạ tầng.
- Cần đảm bảo rằng dân số trẻ được đào tạo và phát triển kỹ năng để có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, tránh tình trạng thất nghiệp.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ở Bắc Trung Bộ:
Thuận lợi:
- Điều kiện tự nhiên tại Bắc Trung Bộ có sự đa dạng về địa hình, từ núi cao đến vùng đồng bằng, tạo ra tiềm năng phát triển nhiều loại nông nghiệp và nguồn tài nguyên đa dạng.
- Vùng này có lợi thế về du lịch với biển cả, bãi biển đẹp, và di sản văn hóa độc đáo.
Khó khăn:
- Bắc Trung Bộ thường gặp các vấn đề liên quan đến thiên tai như lũ lụt và cạn hạn nước, gây khó khăn cho nông nghiệp và đời sống hàng ngày của người dân.
- Vùng này có sự cạnh tranh với các khu vực khác trong việc thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Thuận lợi:
- Tài nguyên biển phong phú: Các đảo và quần đảo có thể cung cấp nguồn tài nguyên biển đa dạng như cá, hải sản, dầu khí, khoáng sản, và năng lượng tái tạo như gió và mặt trời.
- Du lịch và nguồn thu từ biển: Các đảo và quần đảo có thể thu hút du khách bằng cảnh quan đẹp, bãi biển và hoạt động du lịch biển, đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương.
- Vùng biển chiến lược: Vị trí địa lý của các đảo và quần đảo có thể mang lại lợi thế chiến lược trong việc kiểm soát tuyến biển, giao thương và an ninh khu vực.
Khó khăn:
- Giao thông và giao thương: Việc kết nối các đảo và quần đảo với đất liền và với nhau có thể gặp khó khăn do hạn chế về hạ tầng giao thông và vận tải biển.
- Quản lý và phát triển kinh tế: Việc quản lý và phát triển kinh tế trên các đảo và quần đảo đòi hỏi sự đầu tư lớn vào hạ tầng, công nghệ và nguồn nhân lực, đồng thời phải đối mặt với các rủi ro tự nhiên như bão, sóng thần và biến đổi khí hậu.
- An ninh biển: Bảo vệ an ninh quốc phòng trên các đảo và quần đảo đòi hỏi sự tập trung lực lượng và tài nguyên để đảm bảo an toàn và ngăn chặn các hoạt động phi pháp trên biển.
Việc nước ta có nhiều đảo và quần đảo có cả những thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế và giữ vững an ninh quốc phòng
+ VỀ KT: các đảo, quần đảo có thể mang lại nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế của Việt Nam vì nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú ,có thể khai thác các ngành kinh tế như đánh bắt thủy sản, du lịch biển, khai thác dầu khí và đá quý, đồng thời cũng có thể tạo ra các công ăn việc làm cho người dân địa phương. Hơn nữa, các đảo và quần đảo còn có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế biển của Việt Nam, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của cả nước.
Khó Khăn:
Các đảo và quần đảo cũng đối mặt với nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế. Vì địa hình và điều kiện tự nhiên khó khăn, việc vận chuyển hàng hóa và người dân đến các đảo và quần đảo là rất khó khăn. Gây ra nhiều khó khăn trong việc phát triển các ngành kinh tế và gây cản trở cho sự phát triển kinh tế của các đảo và quần đảo.
+ Về mặt ANQP :Các đảo và quần đảo có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Việc giữ vững an ninh quốc phòng trên các đảo và quần đảo là rất quan trọng để bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền của Việt Nam. Vì các đảo và quần đảo cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường an ninh và phòng thủ ở vùng biển, đảm bảo an toàn cho các tuyến đường hàng hải và giữ vững bình yên trên biển đảo.
Khó Khăn:
Việc duy trì an ninh quốc phòng trên các đảo và quần đảo cũng đối mặt với nhiều khó khăn. Chủ yếu là do địa hình khó khăn và xa trung tâm, việc triển khai các lực lượng quân sự và cơ quan chức năng cũng rất khó khăn. Điều này đòi hỏi sự đầu tư lớn và phải đảm bảo an toàn cho các nhân viên và quân sự tại các đảo và quần đảo.
=>>> Các đảo và quần đảo của Việt Nam có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và giữ vững an ninh quốc phòng. Việc khai thác các nguồn tài nguyên và phát triển kinh tế trên các đảo và quần đảo là cần thiết, đồng thời cũng cần đảm bảo an ninh và chủ quyền của Việt Nam trên biển đảo.
1. Kinh tế:
- Các đảo có thể được sử dụng để phát triển ngành du lịch, đặc biệt là du lịch biển và đảo.
- Các đảo có thể được sử dụng để khai thác tài nguyên biển, bao gồm đánh bắt cá, nuôi trồng hải sản, khai thác dầu khí, vv.
- Các đảo có thể được sử dụng để phát triển các ngành công nghiệp, bao gồm sản xuất điện, sản xuất nước uống, vv.
2. An ninh quốc phòng:
- Các đảo có thể được sử dụng để đặt các căn cứ quân sự, giúp bảo vệ lãnh thổ và đảm bảo an ninh quốc phòng.
- Các đảo có thể được sử dụng để đặt các trạm giám sát biển, giúp phát hiện và ngăn chặn các hoạt động phi pháp trên biển.
- Các đảo có thể được sử dụng để đặt các trạm phát sóng, giúp cải thiện việc truyền thông và liên lạc giữa các địa phương.
Ảnh hưởng:
+ Kinh tế: tốc độ phát triển chậm.
+ Xã hội: lao động - việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, giao thông... bị quá tải khiến đời sống người dân chậm được nâng cao.
Cần làm:
Thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình để làm giảm việc gia tăng dân số tự nhiên.
Đặc điểm và sự phân bố các dân tộc ở Việt Nam:
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc khác nhau. Tuy nhiên, dân tộc Kinh chiếm phần lớn dân số, chiếm khoảng 85-90% dân số tổng cộng. Các dân tộc thiểu số khác bao gồm: Tày, Thái, Mường, Khmer, Nùng, H'Mông, Dao, và nhiều dân tộc khác. Đặc điểm của các dân tộc này bao gồm văn hóa, truyền thống, ngôn ngữ, và trang phục riêng biệt. Các dân tộc thiểu số thường tập trung ở vùng núi và miền núi hẻo lánh, trong khi dân tộc Kinh phân bố rộng rãi trên toàn quốc, chủ yếu ở vùng đồng bằng và các thành phố lớn.
Đặc điểm về tình hình gia tăng dân số ở Việt Nam và sự phân bố dân cư:
- Tình hình gia tăng dân số ở Việt Nam đã trải qua các giai đoạn khác nhau. Trong thập kỷ gần đây, tỷ lệ tăng dân số đã giảm đi do các chính sách hạn chế sự sinh sản. Tuy nhiên, dân số vẫn đang tiếp tục tăng, và Việt Nam là một trong các quốc gia có dân số trẻ đông và gia tăng nhanh nhất ở khu vực Đông Nam Á.
- Sự phân bố dân cư ở Việt Nam có sự chênh lệch giữa các vùng miền. Miền Bắc và miền Trung thường có dân số thưa thớt hơn so với miền Nam. Các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có dân số đông đúc hơn so với các vùng quê. Sự chênh lệch này đặc biệt rõ rệt trong việc phát triển kinh tế, với các khu vực đô thị phát triển mạnh mẽ, trong khi vùng nông thôn vẫn đối mặt với nhiều khó khăn.
Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất bao gồm Tày, Thái, Mường, Khmer, Hoa, Nùng, H'Mông, Dao, Người Jrai, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai. Các dân tộc này thường sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Các dân tộc Brâu, Ơ Đu và Rơ Măm chỉ có số lượng nhỏ.