Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
Câu ghép: in đậm
Phép lặp: nàng
Vũ Nương là một người con gái đức hạnh, nàng luôn biết cách giữ gìn khuôn phép dù Trương Sinh có đa nghi và phòng ngừa quá sức thì gia đình vẫn chưa bao giờ xảy ra tranh chấp, bất hòa. Khi chiến tranh nổ ra, chồng nàng phải ra trận, Vũ Nương tiễn chồng ra trận vẫn ân cần dặn dò chồng những lời ân tình, mong ngày về chồng mang theo hai chữ bình an. Ở nhà, nàng một mực giữ tiết, chăm sóc chu toàn gia đình, những mong sớm có ngày đoàn tụ với chồng. Nào đâu, sóng gió ập tới, lời nói ngây thơ của đứa con bé bỏng đã khiến tính đa nghi của chồng nàng nổi dậy. Bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, nàng nói tới thân phận của mình và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng nhưng mối nghi ngờ ở Trương Sinh vẫn khôn nguôi. Không còn lại gì, lòng nàng dâng trào nỗi thất vọng tột cùng, nỗi đau đớn ê chề bởi hạnh phúc gia đình không có cách nào hàn gắn nổi. Nỗi oan khuất trời không thấu, khiến mọi sự chịu đựng, hy sinh trước đó đều vô nghĩa. Nàng giải thích trong sự bất lực và tuyệt vọng đắng cay trước sự đối xử nhẫn tâm của chồng.
Vũ Nương, người con gái đức hạnh, luôn giữ gìn khuôn phép dù Trương Sinh có đa nghi và phòng ngừa quá sức thì gia đình vẫn chưa bao giờ xảy ra tranh chấp, bất hòa. Khi chiến tranh nổ ra, chồng nàng phải ra trận, Vũ Nương tiễn chồng ra trận vẫn ân cần dặn dò chồng những lời ân tình, mong ngày về chồng mang theo hai chữ bình an. Ở nhà, nàng một mực giữ tiết, chăm sóc chu toàn gia đình, những mong sớm có ngày đoàn tụ với chồng. Nào đâu, sóng gió ập tới, lời nói ngây thơ của đứa con bé bỏng đã khiến tính đa nghi của chồng nàng nổi dậy. Bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, nàng nói tới thân phận của mình và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng nhưng mối nghi ngờ ở Trương Sinh vẫn khôn nguôi. Không còn lại gì, lòng nàng dâng trào nỗi thất vọng tột cùng, nỗi đau đớn ê chề bởi hạnh phúc gia đình không có cách nào hàn gắn nổi. Nỗi oan khuất trời không thấu, khiến mọi sự chịu đựng, hy sinh trước đó đều vô nghĩa. Nàng giải thích trong sự bất lực và tuyệt vọng đắng cay trước sự đối xử nhẫn tâm của chồng.
sai rồi bạn,ổng cần lên thiên đàng chứ đâu có cần biết đầu đâu+ổng chỉ dc hỏi có 1 câu mừ
1:
a. Chép chính xác 9 câu thơ nối tiếp đã cho đúng bản in trong sách Ngữ văn 9 – tập 1 (không tính dấu câu).
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân"
b. Nêu đúng tên tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, tên nhân vật trong đoạn thơ: Thuý Kiều.
2:
Nói được ý: Từ “buồn” không diễn tả được nỗi uất ức, đố kỵ, tức giận như từ “hờn”; do đó chưa phù hợp với ý nghĩa dự báo số phận Kiều trong câu thơ của Nguyễn Du.
1a.
Chép thuộc thơ
“ Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đỏi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
b.
Đoạn thơ vừa chép nằm trong văn bản Chị em Thúy Kiều, thuộc tác phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du
Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều.
2
Không thể thay thế từ “hờn” thành từ “buồn” bởi ghen- hờn đi liền với nhau.
Từ “buồn” chỉ sự âu sầu, không vui
Từ “hờn” thể hiện thái độ ghen ghét, đố kị
Ở đây, vẻ đẹp của Kiều khiến cho tạo hóa, tự nhiên phải ghen ghét, đô kị dự báo trước cuộc đời sóng gió
Câu đó có nghĩa là : Tôi ghét bạn .
Câu nói đó làm cho người đọc cảm thấy khó chịu , đôi lúc là bực tức và nếu như trong tình yêu thì là tuyệt vọng
a)Lời đánh giá trên của vua Quang Trung.Hồi thứ mười bốn là đoạn trích dài, kể lại diễn biến của nhiều tình tiết, sự kiện. Để hiếu rõ đoạn trích này, chúng ta phải tìm hiểu đôi nét về nội dung của hồi mười hai và mười ba. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai đề bắt viên quan phản bội Vũ Văn Nhậm thì vua Lê Chiêu Thông sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên vùng biên ải phía Bắc, chiêu mộ nghĩa binh Gần vương đế chống lại. Nhưng nhóm nghĩa binh ít ỏi ấy không đủ sức đối địch với quân Tây Sơn. Lê Chiêu Thống bèn cử hai viên quan hầu cận là Lê Duy Đản và Trần Danh Án bí mật trốn sang Trung Quốc, gặp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị để cầu viện. Tôn Sĩ Nghị muốn nhân cơ hội này cướp nước ta liền tâu lên vua Mãn Thanh,xin đưa quân sang đánh. Được lệnh, Tôn Sĩ Nghị kéo đại quân sang với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Diệp. Quân giặc kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự nào liền sinh ra kiêu căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cùng theo về, nhận sắc phong bù nhìn An Nam Quốc Vương.
c)
Chỉ huy 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là bọn Sĩ Nghị. Sau khi chiếm được Thăng Long "không mất một mũi tên, như vào chỗ không người" hắn vô cùng kiêu căng buông tuồng". Bọn tướng tá chỉ biết "chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân". Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để "bắt sống, không một tên nào lọt lưới".
Thế nhưng, trước sức tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị dập nát. Sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn tên giặc phải bỏ mạng ở đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị "sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp... nhằm hướng Bắc mà chạy". Quân tướng hoảng hồn, tan tác bỏ chạy". Chúng tranh nhau chạy xô đẩy nhau rơi xuống sông. Cầu phao đứt, hàng vạn tên giặc bị rơi xuống nước mà chết, đến nổi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước!
Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống. Lệ Quýnh. Trịnh Hiến trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy đến Nghi Tàm, ,thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá vội cướp lấy rồi chèo sang bờ Bắc".
Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần "than thở, oán giận, chảy nước mắt" trông thật bi đát, nhạc nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị "cũng tay làm xấu họ". Chết nhưng nết
không chừa! Lệ Chiêu Thống hứa "lại xin sang hầu tướng quân", nghĩa là tiếp tục rước voi về giày mả tổ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác lác: "Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi!".
Có thể nói, hình ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi tiết châm biếm, thể hiện một thái độ khinh bỉ sâu sắc.
Đọc "Hồi thứ mười bốn" “Hoàng Lê nhất thống chí". ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc và âm mưu của THiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta, vô cùng kính phục và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà quân sự thiên tài của Đại Việt.
Bằng nghệ thuật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tác giả Ngô gia văn phái tạo nên những trang văn hào hùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.
IV. Cảm nghĩ về người anh hùng Nguyễn Huệ qua hồi thứ mười bốn
Hoàng Lê nhất thống chí
Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh lan ba mươi vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói hồi thứ mười bốn trong tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí" của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy dù chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.
Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà Hoàng Thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc", gọi Nguyễn Huệ bằng "hắn" nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân: "... Nguyễn Huệ lù một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam (in hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết, hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn.... Trong khi nói những lời ấy, chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là "giặc" thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô Gia văn phái vốn theo "chính thống" phần nào bị quan điểm “chính thống" chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn.
Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyền Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho dắp dàn ở núi Bàn tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lỗ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết láng Iighc và tôn trọng ý kiến người khác. Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyen Huệ tự mình đốc xuất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bởi vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ: ”... Quân Thanh sang xâm lược nước ta hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?... Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Dại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Nqài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng được chúng và đuổi được chúng về phương Bắc...”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém "Hịch tướng sĩ' của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả "Hoàng Lẽ nhất thống chí hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn", “bên trong thì kích thích lòng dân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng”... Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: "Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh Nhưng ông cũng luôn luôn đề phòng hậu họa: "Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao dứt". Và ông đã dự định chọn người "khéo lời lẽ" đổ "dẹp việc binh đao" đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung, ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao đầu rơi máu chảy. Trong khi tiến quân, ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: "Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả Đó là cái giỏi, cũng là cái tâm của người cầm quân.
Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong hồi mười bốn "Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó, người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải. Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài "xuất quỷ. nhập thần" mà còn là một vị tướng giàu lòng yêu nước thương dân, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.
Trong kháng chiến chống Mĩ, con đường Trường Sơn, đã thành biểu tượng anh hùng của cuộc chiến đấu giành độc lấp tự do. Dưới mưa bom bão đạn của quân thù, con đường vẫn vươn dài về phía trước chở trên mình bao đoàn quân, đoàn xe rầm rập tiến về phía Nam. Để cho cái mạch máu Trường Sơn ấy luôn thông suốt, đã có hàng vạn thanh niện xung phong ngày đêm bám đường san lấp hố bom, phá bom nổ chậm. Nhà văn Lê Minh Khuê đã từng là thanh niên xung phong trên tướng đường TS máu lửa này. Những tác phẩm chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung phong ở đây đã gậy được sự chú ý của nhiều bạn đọc. Truyện ngắn:"Những Ngôi Sao Xa Xôi" là một trong những tác phẩm tiêu biểu. Truyện viết về ba cô gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường TS đạn bom khốc liệt. Phương Định, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu sắc trong lòng người đọc.
Từ một Phương Định căng thẳng tột độ lúc phá bom, hiện ra một Phương Định trong niềm vui con trẻ "nở tung ra" , trước trận mưa đá bất ngờ kéo cô về vời tuổi thơ ngày nào. Cùng với trận mưa, những kỷ niệm thời thiếu nữ lại trào lên trong cô không gì ngăn nổi. Chúng "xoáy mạnh như song" với bao hình ảnh thân thương của gia đình, thành phố. Cô là người con gái Hà Nội có hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao kiều hãnh như đài hoa loa kèn. Đôi mắt cô được các anh lái xe bảo: "có cái nhìn xa xăm" vì pháo thủ lái xe hay hỏi thăm và viết những bức thư dài cho Phương Định cô có vẻ kiêu kì, làm điệu khi tiếp xúc với anh bộ đội. Nhưng trong suy nghĩ của cô những người đẹp nhất, thông minh can đảm, cao thương nhất là những người mặc quân phục có sao trên mũ. Là cô gái yêu đời, hồn nhiền giàu cá tính, thuở nhỏ đã hay hát. Cô có thể ngồi lên cửa sổ căn phòng nhỏ bé của mình, hát say sưa, ầm ĩ. Bàn học lúc nào cũng bừa bãi đền nỗi mẹ phải mắng. Sống trong cảnh ác liệt, cái chết kề bên, Phương Định lại càng hay hát những bài thành khúc, những điều dân ca quan họ, bài ca Chiu-sa, bài dân ca ý. Định còn bịa ra lời bài hát. Định hát trong những khoảnh khắc im, hát để động viên Nho - Thao và bản thân. Hát khi máy bay rơi, bom nổ. Tiếng hát át đi tiếng bom của những con người trong tổ trinh sát. Trong kháng chiên chống Mĩ, tiền tuyến vẫy gọi, hàng vạn cô gái mang chí khí Bà Trưng, Bà Triệu xung phong ra tiền tuyến trong đó có Phương Định. Con đường TS huyền thoại được làm nên bằng sương máu, mồ hôi và bao sự tích phi thường của người con gái Việt Nam anh hùng. Tác phẩm đã tái hiện chân thực diễn biến tâm lí nhân vật của Phương Định trong một lần phá bom. Cô dũng cảm bình tĩnh tiến đến quả bom, đàng hoàng mà bước tới cùng xới xẻ đào đất có lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom, có lúc Phương Định rùng mình cảm thấy tại sao mình lại làm chậm thế. Rồi bom nổ vàng óc, đất rơi lộp bộp, mắt cay mãi mới mở được, cát lạo xạo trong miệng. Đó là cuộc sống thường nhật của họ, Phương Định cho biết :" Tôi có nghĩ đến cái chết nhưng đó là cái chết mờ nhạt trọng cụ thể". Phương Định cùng Nho, chị Thao sáng ngời trong khói bom lửa đạn. Chiến công thầm lặng của họ bất tử với những năm tháng lòng người. Phương Định là cô gái dũng cảm trong lửa đạn, giàu tình yêu thương đồng đội trong sáng mộng mơ, thích làm duyên như bao cô thiếu nữ ngày xưa.. Họ có mặt trên những trọng điểm của con đường TS chiến lược và trái tim rực đỏ của họ - Những người con gái Việt Nam anh hùng là những ngôi sao xa xôi mãi lung linh tỏa sang.
Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong lòng ta những hình ảnh tuyệt đẹp về chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường. Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng. Nhân vật PĐ đã để lại trong lòng người đọc một nỗi niềm đồng cảm yêu mến và kính phục về những phog cách tốt đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam. Những PĐ gần xa vẫn tỏa sáng trong hồn ta với bao ngưỡng mộ.
có nghĩa là:
THIÊN ĐỊA BẤT NHÂN
DĨ VẠN VẬT VI SÔ CẨU
hok tốt nehs
nghĩa việt ấy