Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Thời tần, chế độ phong kiến của Trung Quốc đã đc hình thành, Tần Thủy Hoàng đã thi hành một loạt chính sách như chia đất nước thành các quận huyện và trực tiếp cử quan lại đến cai trị,ban hành một chế độ đo lường và tiền tệ thống nhất trong cả nước, gây chiến tranh, mở rộng lãnh thổ về phái bắc và phía nam...
Các vua thời hán đã xóa bỏ chế độ pháp luật khắt khe của nhà tần, giảm nhẹ tô thuế và sưu dịch cho nông dân, khuyến khích họ
nhận ruộng cày cấy và khẩn hoang, phát triển sản xuất nông nghiệp
nhờ thế kinh tế phát triển, trật tự xã hội ổn định, thế nước đã vững vàng.Nhà hán còn tiến hành nhiều cuộc chiến tranh, xâm lấn bán đảo triền tiên, thôn tính các nước phương nam
Từ thời cổ đại, trên lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang có nhiều quốc gia nhỏ của người Trung Quốc. Giữa các nước này thường xuyên xảy ra các cuộc chiến tranh nhằm xâu xé và thôn tính lẫn nhau, làm thành cục diện Xuân Thu – Chiến Quốc. Đến thế kỉ IV TCN, Tần trở thành nước có tiềm lực về kinh tế và quân sự mạnh hơn cả. Dựa vào ưu thế đó, nhà Tần đã lần lượt tiêu diệt các đối thủ, chấm dứt tình trạng chia cắt lãnh thổ.
Năm 221 TCN, Tần đã thống nhất được Trung Quốc.
Thời Tần, các giai cấp mới được hình thành. Quan lại là người có nhiều ruộng đất tư trở thành địa chủ. Nông dân cũng bị phân hoá. Một bộ phận giàu có trở thành giai cấp bóc lột.
Một số khác vẫn giữ được ruộng đất để cày cấy trở thành nông dân tự canh. Số nông dân công xã còn lại là những người rất nghèo, không có ruộng, phải nhận ruộng của địa chủ để cày cấy - gọi là nông dân lĩnh canh. Khi nhận ruộng, họ phải nộp một phần hoa lợi cho địa chủ, gọi là tô ruộng đất. Đến đây, quan hệ bóc lột địa tô của địa chủ đã thay thế cho quan hệ bóc lột của quý tộc đối với nông dân công xã. Chế độ phong kiến được xác lập.
Lan Xang (có khi viết là Lan Ch'ang, Lanexang, tiếng Pali: Sisattanakhanahut, tiếng Lào: ລ້ານຊ້າງ - lâansâang,tiếng Trung: 南掌 - Nam Chưởng hay 萬象 - Vạn Tượng), nghĩa là "đất nước triệu voi" (Lan: triệu, Xang: voi), là quốc gia đầu tiên của người Lào, được vua Phà Ngừm khai sáng năm 1354.
Dưới thời nhà Nguyễn nước ta không phát triển là do:
a) Nông nghiệp:
-Tuy chú ý tới việc khai hoang, lập ấp, lập đồn điền, đặt lại chế độ quân điền.
-Nhưng đê điều không được quan tâm, tu sửa, nạn tham những phổ biến
-> Nông nghiệp sa sút.
b) Thủ công nghiệp
-Nhà nước lập nhiều xưởng đúc tiền, đúc súng,..
-Ngành khai mỏ được mở rộng nhưng kĩ thuật còn lạc hậu, hoạt động thất thường.
-Các nghề thủ công vẫn phát triển nhưng bị kìm hãm và sa sút dần, phải nộp thuế nặng nề.
-> Thủ công nghiệp có điều kiện phát triển nhưng bị phân tán.
c)Thương nghiệp:
-Buôn bán trong nước có nhiều thuận lợi
-Xuất hiện thêm nhiều thành thị mới nhưng hạn chế buôn bán với nước ngoài.
Bạn nên nói rõ ra là trình bày nguyên nhân, diễn biến, kết quả hay ý nghĩa nha
Từ năm 1418 đến năm 1423, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xây dựng và bảo vệ căn cư địa vùng rừng núi Thanh Hóa.
Từ năm 1424 đến 1425, tiến quân vào Nghệ An, mở rộng vùng giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa
Từ 1426 đến 1427, tổng tấn công ra Bắc, giải phóng hoàn toàn đất nước.
Tháng 9-1426, khoảng gần 10.000 nghĩa quân từ Thanh Hóa đã tiến ra Bắc theo 3 đạo :
- Đạo phía tây, do Phạm Văn Xảo và Lý Triện chỉ huy, tiến đánh miền Tây Bắc, chặn viện binh từ Vân Nam sang.
- Đạo phía đông, do Bùi Bị, Lưu Nhân Chú chỉ huy, tiến ra miền đồng bằng Bắc Bộ và vùng Đông Bắc, chặn viện binh từ Quảng Tây sang.
- Đạo chính giữa, do Đinh Lễ và Nguyễn Xí chỉ huy, tiến thẳng ra phía nam thành Đông Quan, uy hiếp vây hãm thành.
Tháng 10 - 1426, địch đã cho rút đại bộ phận quân sĩ từ thành Nghệ An về tăng cường cho Đông Quan. Tiếp đó, tháng 11 , 5 vạn viện binh từ Trung Quốc, do Vương Thông làm Tổng chỉ huy, cùng kẻo đến Đông Quan, đưa tổng số quân địch lên hơn 10 vạn.
Tháng 10 - 1427, Liễu Thăng (viên tướng đã chỉ huy thủy binh triệt Hồ Quý Ly) đem 10 vạn viện binh theo đường Lạng Sơn tiến vào Đại Việt.Cùng lúc, đạo quân Mộc Thạnh tiến theo đường Vân Nam. Khi qua ải Chi Lăng (Lạng Sơn) Liễu Thăng đã bị nghĩa quân do Lưu Nhân Chú, Trần Lựu chỉ huy dùng mưu trá hàng nhử địch sa vào trận địa phục kích, giết chết bên sườn núi Mã Yên. Hàng vạn quân địch bị tiêu diệt. Tiếp theo, ta còn tấn công trên tiếp ở các trận Cần Trạm, Phố Cát. Binh bộ thượng thư Lý Khánh phải tự tử.
Sau khi đại bại, quân Minh tháo chạy về co cụm tại Xương Giang (Bắc Giang). Thôi Tụ phải đắp thành lũy giữa đồng để phòng ngự. Lê Lợi và Trần Nguyên Hãn điều binh xiết chặt vòng vây, tổng tấn công Xương Giang, diệt 5 vạn, bắt sống 3 vạn địch, trong số đó có các tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc. Được tin Liễu Thăng chết, đạo viện binh của Mộc Thạnh cũng hết hoảng rút lui. Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang đã chôn vùi những hy vọng cuối cùng của quân Minh.
Không có viện binh, quân Minh càng khốn đốn ở Đông Quan, tinh thần nao núng, suy sụp nhanh chóng.
Cuối năm 1427, Vương Thông buộc phải xin hòa, thỏa thuận rút quân không chờ viện binh, cam kết trong Bài văn hội thề đọc tại một địa điểm phía nam thành Đông Quan. Lê Lợi hứa cung cấp lương thực, thuyền bè, sửa chữa cầu đường, tạo điều kiện cho quân Minh nhanh chóng rút về nước.
Chiến tranh kết thúc, Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi nhân danh Lê lợi soạn thảo được công bố.
Ngày 29 tháng 4 năm 1428 (năm Mậu Thân), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế (tức Lê Thái Tổ), lập ra triều Lê (Hậu Lê), đặt Quốc hiệu là Đại Việt.
Câu trả lời hay nhất: Thời phong kiến dù chế độ có thối nát, nhưng ai đó đứng lên lật đổ sẽ bị coi là phản tặc, những người
tài giỏi phải dùng mọi cách để nhà vua tự nguyện nhường ngôi. vì thế Nguyễn Kim phải lấy danh nghĩa phù Lê Diệt Mạc thì mới hợp lòng dân và ngoại bang cũng không có cớ giúp Lê đánh lại giặc được.
Mình nói thêm: Thời các chúa Mạc họ thừa sức lật nhà Lê nhưng họ vẫn phải để cho hợp lòng dân, cho dù nhà Lê lúc đó là bù nhìn thôi.
Chúc bạn ht
đề sai đúng ko bn , phỉa là phù Lê diệt Trịnh chứ