K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

4 tháng 10 2016

mk kẻ bảng cho dễ nhớ nha

So sánhPhương ĐôngChâu Âu
cơ nông nghiệp chủ yếu là kết hợp vs chăn nuôi và 1 số nghề thủ công
 

nông nghiệp chủ yếu là kết hợp vs chăn nuôi và 1 số nghề thủ công

sởsản xuất đóng kín trong nông sản nông thôntrong các lãnh địa
kinhruộng đất nẳm trong tay địa chủruộng đất nằm trong tay lãnh chúa
tếphương thức bóc lột= địa tôphương thức bóc lột= địa tô
địa của và nông dân lĩnh canhlãnh chúa và nông nô
hộichế độ quân chủchế độ quân chủ
nhà nướcvua có nhiều quyền lực gọi là hoàng đếlúc đầu hạn chế trong các lãnh địa từ thế kỉ XVI, quyền lực tập trung trong tay vua.

 

4 tháng 10 2016

1. Sự giống nhau:

Kinh tế: 
Kinh tế nông nghiệp là chính, bên cạnh là kinh tế thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ.
Tư liệu sản xuất chính là ruộng đất.
Lực lượng sản xuất chính là nông dân.
Đặc điểm cơ bản là tự cung tự cấp.
Xã hội:
Tất cả ruộng đất, con người đều là của cải và thuộc quyền sở hữu của nhà vua.
Hai giai cấp cơ bản và cũng chính là mâu thuẫn cơ bản là chủ đất và nông dân làm thuê.
Phân chia đẳng cấp là đặc điểm tiêu biểu.
Chính trị:
Bộ máy nhà nước đứng đầu là vua, giúp vua là quan. Vua, quan là những giai cấp thống trị nhân dân.
Chế độ chính trị: đi từ phân quyền đến tập quyền, đây là đỉnh tột cùng của chế độ phong kiến.
Tư tưởng:
Cả hai đều lấy tôn giáo làm cơ sở lí luận cho sự thống trị của mình (Trung Quốc: Khổng giáo, Ấn Độ: Hồi giáo, châu Âu: Thiên chúa giáo).

2. Sự khác nhau:

Kinh tế - xã hội:
- Giai cấp thống trị phương Đông là địa chủ, quý tộc, ở phương Tây thế lực thống trị gồm quý tộc, tăng lữ, lãnh chúa. Chúng câu kết với nhau rất chặt và bóc lột nông nô tàn bạo và khắc nghiệt hơn so với phương Đông.
- Giai cấp bị trị: Nông dân tá điền (phương Đông) so với nông nô (phương Tây) có phần dễ chịu và ít khắt khe hơn.
- Mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong chế độ phong kiến phương tây nặng nề và gay gắt hơn phương Đông. Điều này lí giải sự sụp đổ sớm của chế độ phong kiến phương Tây (tồn tại 1o thế kỉ) và sự tồn tại lâu dài của chế độ PK phương Đông (hơn 2500 năm).

Chính trị và tư tưởng.

Chế độ quân chủ phương Đông xuất hiện sớm hơn ở phương Tây khoảng 1000 năm.
Sự chuyển biến từ chế độ phân quyền sang tập quyền ở phương Đông (thời Tần Thủy Hoàng) và A-sô-ka diễn ra sớm. Trong khi đó ở phương tây sự tập quyền diễn ra chậm trễ (thế kỉ XIV) và nhà vua được sự giúp đỡ của thị dân mới dẹp được sự cát cứ của các lãnh chúa.
Cơ sở lí luận chio chế độ phong kiến phương Đông và phương tây là các tôn giáo có sẵn từ trước. tuy nhiên, sự can thiệp của tầng lớp tăng lữ phương tây vào hệ thống chính trị là rõ ràng và chặt chẽ hơn. Trong khi đó, ở phương Đông tầng lớp này không mang tính công khai và rất ít nơi trở thành giai cấp thống trị.

4 tháng 10 2016

Chế độ quân chủ ( hay còn gọi là xã hội phong kiến ) là nhà nước do vua đứng đầu . Sau vua là các quan lại nắm các bộ phaanj khác nhau . Vua và quân lại đi bóc lột . Nông dân , thương nhân bị bóc lột 

VD : Phương đông : Nước Trung Quốc , Nước Hàn Quốc ; ...

       Phương tây : Nước Anh ; nước Pháp ; nước Đức ; ............

4 tháng 10 2016

 - Chế độ quân chủ là thể chế nhà nước do vua đứng đầu.
- Chế độ quân chủ chuyên chế là chế độ mà quyền lực tập trung tuyệt đối, tối cao, vô hạn trong tay một người (vua - hoàng đế - Thiên tử...), mọi người phải phục tùng tuyệt đối.

- Ví dụ:

+ Giống như ở phương Tây , người đứng đầu là Lãnh Chúa (vua) có mi quyền hành , có thể ban ra mọi thứ thuế để bóc lột nông nô , sống sung xướng xa hoa .

+ Còn phương Đông cũng tương tư , Vua của họ gọi là Địa chủ , nên có một câu rất nổi tiếng là :"Quân xử thần tử thần bất tử bất trung"

26 tháng 10 2016

sao ma cau hoi cau dua ra toan la cau dao nay to lam

 

27 tháng 10 2016

vạn lí trường thành dk k

9 tháng 10 2016

Không bik lập bảng, mik viết ra roài tự ss nhá.

___Các nước phương Đông:

+ Hình thành: TCN - X

+ Phát triển: X - XVI

+ Suy vong: XVI - XIX.

+ Thể chế quân chủ tập quyền.

+ Tư sản ra đời muộn.

___Các nước phương Tây:

+ Hình thành: V - X

+ Phát triển: XI - XIV

+ Suy vong: XV - XVI

+ Thể chế quân chủ phân quyền

+ Tư sản ra đời sớm.

Chế độ quân chủ là thể chế nhà nước do vua đứng đầu. - Chế độ quân chủ chuyên chế là chế độ mà quyền lực tập trung tuyệt đối, tối cao, vô hạn trong tay một người (vua - hoàng đế - Thiên tử...), mọi người phải phục tùng tuyệt đối.

VD: Phương Đôgn: Một nc một vua, vua đứng đầu tất cả

Phương Tây: Có các lãnh chúa cai quản vùngg đất của họ.

9 tháng 10 2016

1.Phương đông
- Thời gian hình thành sớm, kết thúc muộn
- Chế độ quân chủ tập quyền, vua có quyền lực tối cao
- Nền kinh tế dựa trên Nông nghiệp là chính, kết hợp TCN 
- Xã hội phân chia 2 giai cấp chính: Địa chủ và nông dân
Phương tây
- RA đời muộn, kết thúc sớm
- Chế độ dân chủ, quyền lực do 1 hay nhiều nhóm quyết định
- Kinh tế dựa trên thương nghiệp, buôn bán là chính
- Gồm Chủ nô và nô lệ là chính

2.- Chế độ quân chủ là thể chế nhà nước do vua đứng đầu.
- Chế độ quân chủ chuyên chế là chế độ mà quyền lực tập trung tuyệt đối, tối cao, vô hạn trong tay một người (vua - hoàng đế - Thiên tử...), mọi người phải phục tùng tuyệt đối.
 

 

19 tháng 9 2016

- Cướp bóc của cải, tài nguyên -> giàu có -> nông dân trở nên nghèo khổ -> phải đi làm thuê cho các quý tộc và thương nhân -> những người này vừa có nguồn vốn vừa có công nhân.

19 tháng 9 2016

ok.cảm ơnvui

23 tháng 9 2016

Kelly Oanh ko bít trả lời đúng ko ?

)So sánh xã hội phong kiến phương đông và phương tây về:
Thời gian hình thành, thời gian kết thúc.
Thể chế chính trị.
Đặc điểm kinh tế.
Thành phần xã hội.
2)Các khái niệm lãnh địa phong kiến, chế độ phong kiến tập quyền, chế độ phong kiến phân quyền, quá trình phân hoá. Đặc điểm lãnh địa phong kiến, thành thị trung đại. Thuận lợi và khó khăn của điều kiện thiên nhiên của Đông Nam Á trong quá trình phát triển tự nhiên và văn hóa.
1. Phương đông
- Thời gian hình thành sớm, kết thúc muộn
- Chế độ quân chủ tập quyền, vua có quyền lực tối cao
- Nền kinh tế dựa trên Nông nghiệp là chính, kết hợp TCN 
- Xã hội phân chia 2 giai cấp chính: Địa chủ và nông dân
Phương tây
- RA đời muộn, kết thúc sớm
- Chế độ dân chủ, quyền lực do 1 hay nhiều nhóm quyết định
- Kinh tế dựa trên thương nghiệp, buôn bán là chính
- Gồm Chủ nô và nô lệ là chính
2. Khái niệm lãnh địa phong kiến: Lãnh địa phong kiến là vùng lãnh thổ mà được cắt ra từ lãnh thổ chung do nhà nước phong kiến ,Vua , cắt ra phong cho những cận thần có công với mình, người được phong xem vùng đất được phong là đất riêng của mình có quyền ăn bỗng lộc thuế má của vùng ấy .
- Chế độ phong kiến tập quyền: quyền lực tập hợp tại tay 1 người ( Vua )
- Phân quyền: quyền lực không do 1 cá nhân làm chủ, mà do nhiều nhóm người đứng đầu quyết định
* Đặc điểm lãnh địa phong kiến, thành thị trung đại
- Lãnh địa phong kiến: lãnh chúa có địa vị tối thượng, có mọi quyền hành, được xem như 1 vị vua trong lãnh địa của họ, cuộc sống sung sướng, bốc lột nông nô, sống tự cung tự cấp, không giao lưu với bên ngoài
- THành thị trung đại: Khi những người nông nô bị áp bức, chèn ép, 1 số nông nô thoát khỏi nô lệ cùng nhau lập nên thành thị, tự do buôn bán => hình thành những giai cấp mới
* Thuận lợi khó khăn
Thuận lợi:

+ điều kiện tự nhiên: Chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt : mùa khô lạnh mát và mù mưa tương đối nóng và ẩm.
+ Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho bười đi đầu tiên của con người: địa bàn sinh tụ nhỏ nhưng lại phong phú về nguồn thức ăn, đã tạo ra không gian thuận lợi cho cuộc sống của con người thời cổ. Vì vậy, từ rất xa xưa con người đã có mặt tại khu vực này.

- Khó khăn:

+ Đây là khu vực phân tán do nhiều đảo, bán đảo nhỏ, kinh tế không đồng đều.
+ Do địa bàn phân tán bởi nhiều đảo nhỏ nên mối quan hệ giữa các nước Đông Nam Á còn khó khăn đễ xảy ra xung đột và chiến tranh.

hoặc:

Đông Nam Á hiện nay gồm 11 quốc gia (Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Singapo, Inđônêxia, Malayxia, Philippin, Mianma, Brunây, Đông Timo), diện tích hơn 4 triệu km², với dân số trên 500 trIệu người. Từ lâu vẫn được coi là một khu vực địa lí – lịch sử - văn hoá riêng biệt và còn được gọi là khu vực “châu Á gió mùa”. * Thuận lợi - Điều kiện địa lí, tự nhiên : Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới, gió mùa khá rõ rệt : mùa khô lạnh, mát và mùa mưa tương đối nóng ẩm. Gió mùa kèm theo mưa rất thuận lợi cho việc phát triển nghề nông trồng lúa nước, các loại cây ăn quả, ăn củ, chăn nuôi gia súc… - Là khu vực có thảm động vật thực vật phong phú, xen kẻ giữa đồi, núi, sông biển, đồng bằng, tạo nên sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên thuận lợi cho cuộc sống ban đầu của con người  từ xưa con người đã có mặt ở khu vực này. * Khó khăn - Địa hình nhỏ hẹp, bị phân tán, chia cắt nên không có những đồng bằng rộng lớn để phát triển nông nghiệp trên quy mô lớn. Bên cạnh đó, thiếu những cánh đồng ruộng trồng lúa, cũng thiếu cả những cánh đồng cỏ rộng để chăn nuôi đàn gia súc lớn. Một số đồng bằng hiện nay được coi là rộng và trù phú, thì cách đây vài nghìn năm vẫn còn ngập úng. - Khí hậu nhiệt đới gió mùa thường xuyên gây nên lũ lụt, hạn hán, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. * Ở Đông Nam Á, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều dấu vết của sự chuyển biến từ vượn thành người tinh khôn. Người vượn: Ở Mi-an-ma, In-đô-nê-xia, Người tối cổ ở: Gia va (In-đô-nê-xia), Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, núi Đọ (Việt Nam), A-ny-át (Mi-an-ma), Thái Lan, Malaixia... * Sự xuất hiện người tinh khôn ở thời đá cũ hậu kì gắn liên với sự hình thành các chủng tộc. * Văn minh Đông Nma Á mang đủ các sắc thái của những nền văn minh đồng bằng, biển, nửa đồi núi, nửa đồi núi, nửa rừng với đủ dạng kết cấu đan xen phức tạp…Cơ sở chung của nền văn minh này là nông nghiệp trồng lúa nước, văn hoá xóm làng. * Ngày nay, ở mỗi nước Đông Nam Á đều có mặt hầu như đủ các thành phần các nhóm chủng tộc người chủ yếu, nói những ngôn ngữ khác nhau, song họ đều quần tụ, gắn bó với nhau trong đời sống xã hội, trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, phồn vinh theo những mô hình kinh tế - xã hội khác nhau.

30 tháng 9 2016

- Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp kết hợp với chăn nuôi và một số nghề thủ công.

- Sản xuất nông nghiệp bị bó hẹp, đóng kín trong các công xã nông thôn ( p.đ) hay trong các lãnh địa ( p. t)

-Ruộng đất nằm trong tay địa chủ hay lãnh chúa, họ giao đất cho nông nô và nông dân lĩnh canh cày cấy bà thu bằng điạ tô

- Có hai giai cấp chính : địa chủ và nông dân lĩnh canh ( p. đ) , lãnh chúa và nông nô ( p. t) 

- Tuy nhiên ở phương tây, từ sau TK XI thành thị xuất hiễn, nền kinh tế công, thương mại phát triển 

=> ko bít đúng ko

25 tháng 12 2016

bạn có phải Phương Anh Béo lớp 7 lớp mìnhk mình là Hùng đâylolang

25 tháng 12 2016

mk k quen ai tên Hùng bn nhé

chắc bn nhầm người rồi

6 tháng 11 2016

+Kinh tế - xã hội:
- Giai cấp thống trị phương Đông là địa chủ, quý tộc, ở phương Tây thế lực thống trị gồm quý tộc, tăng lữ, lãnh chúa. Chúng câu kết với nhau rất chặt và bóc lột nông nô tàn bạo và khắc nghiệt hơn so với phương Đông.
- Giai cấp bị trị: Nông dân tá điền (phương Đông) so với nông nô (phương Tây) có phần dễ chịu và ít khắt khe hơn.
- Mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong chế độ phong kiến phương tây nặng nề và gay gắt hơn phương Đông. Điều này lí giải sự sụp đổ sớm của chế độ phong kiến phương Tây (tồn tại 1o thế kỉ) và sự tồn tại lâu dài của chế độ PK phương Đông (hơn 2500 năm).
+Chính trị và tư tưởng.
Chế độ quân chủ phương Đông xuất hiện sớm hơn ở phương Tây khoảng 1000 năm.
Sự chuyển biến từ chế độ phân quyền sang tập quyền ở phương Đông (thời Tần Thủy Hoàng) và A-sô-ka diễn ra sớm. Trong khi đó ở phương tây sự tập quyền diễn ra chậm trễ (thế kỉ XIV) và nhà vua được sự giúp đỡ của thị dân mới dẹp được sự cát cứ của các lãnh chúa.
Cơ sở lí luận chio chế độ phong kiến phương Đông và phương tây là các tôn giáo có sẵn từ trước. tuy nhiên, sự can thiệp của tầng lớp tăng lữ phương tây vào hệ thống chính trị là rõ ràng và chặt chẽ hơn. Trong khi đó, ở phương Đông tầng lớp này không mang tính công khai và rất ít nơi trở thành giai cấp thống trị.

12 tháng 12 2016
"Thời giờ ngựa chạy, tên bay
Hết trưa lại tối, hết ngày lại đêm,
Đông qua xuân đã đến liền
Hè về rực rỡ êm đềm thu sang..."
Đó là những câu thơ mà tôi đã được nghe từ bé, nhưng đến bây giờ mới tận tường hiểu nghĩa. Thật vậy, thời gian trôi đi thật nhanh, mới ngày nào đây khi tôi còn bé, cứ mỗi lần đến tết tôi và các bạn cùng hân hoan trông chờ, một cái tết được nhiều niềm vui và hạnh phúc. Hôm nay trong tiết trời se lạnh của quê nhà miền Trung nhớ lại kỷ niệm những ngày tết đã qua, tôi bồi hồi nhớ về những tết năm xưa khi tôi còn bé.
Khoảnh khắc giao mùa làm cho đất trời vạn vật thay đổi như được khoác trên mình màu áo mới. Cây cối đâm chồi, nảy lộc. Những nhánh hoa mai, hoa lan, hoa vạn thọ nở... báo hiệu một mùa xuân sắp về, khiến lòng người rạo rực, chờ mong năm mới.
Giao thừa là thời điểm thiêng liêng giữa năm cũ và năm mới, khi đất - trời giao cảm, muôn vật như tạm thời ngưng đọng trong giây phút để rồi bừng ra một sức sống mới, một sự tái sinh kỳ diệu. Đất trời vào xuân mang hơi thở rất lạ, nồng nàn, khoan thai làm cho lòng người chìm trong thứ men say ngất ngây. Giây phút thiêng liêng, tức là đón Giao thừa mọi người ai cũng muốn rũ bỏ những cái gì đó không may mắn của năm cũ để đón nhận những điều may điều tốt của năm mới.
Phải chăng vì thế mà chẳng ai muốn tỉnh giấc trong cái “men say” ấy. Cái “men” mà chỉ mùa xuân mới có: cảm giác yêu thương và muốn được yêu thương, cảm giác được che chở và mong ngóng có một năm mới ngập tràn hạnh phúc…
Vẫn nhớ như in những ngày trước tết, nhà nào cũng hân hoan, người gói bánh, người làm mứt, người lo sắp dọn nhà cửa... mọi người tắm rửa rồi ăn cơm tất niên, công việc đó được coi như một nghi lễ của ngày cuối năm. Cái mùi thơm của những trái bồ kết, lá hương nhu, lá chanh dùng để đun nước gội đầu và tắm rửa... đến nay vẫn còn đọng lại trong ký ức
Người xưa quan niệm rằng “việc tắm ngày cuối năm bằng nước lá hoa mùi là để gột rửa bụi trần, gột rửa mọi nỗi ưu tư và cũng là để tắm rửa tinh thần, giúp con người tĩnh tâm hơn sau bao khổ nhọc của cuộc mưu sinh tìm đường trở về đoàn tụ bên mái ấm”. Những giây phút ấy như đánh dấu cho một sự đổi mới với bao hoài bão, mong ước cho một tương lai mới, thách thức mới.
Nhớ những tết xưa, cứ chiều 30 tết, nhà nào nhà nấy đã chuẩn bị đầy đủ thực phẩm cho ba ngày tết, nào thịt, nào gà, nào dưa món nào bánh chưng, bánh tét…, những thứ không thể thiếu của ngày tết.
Cũng có những năm khó khăn, khi xã hội kinh tế chưa phát triển, nhưng được nhà nước ưu ái cho những tình cảm giản đơn, bằng tem phiếu nhưng nhà nào cũng có mứt, có bánh, có rượu và cả pháo nữa, cố gắng lắm thì sắm sửa được nhiều hơn. Nhớ lại một kỷ niệm, có những năm nhà tôi tự rang gạo nếp giã thành bột, trộn với đường cát và tự làm bánh in, cái thứ bánh mà trước dùng để thờ Ông bà và sau lại chia phần cho con cháu rất thích. Thường xuyên hơn nữa là năm nào cũng cố gắng dành dụm gói vài đòn bánh, nếp tự làm lá gói và lạt buộc thì nông thôn không bao giờ thiếu, nhớ nhất là đêm nấu bánh, hương thơm của lá chuối và gạo nếp ngan ngát bay xa, không khí tết càng nên ấm cúng, chờ đợi bánh chín, vớt ra tôi và các em luôn muốn được ăn thử, nhưng không được Ba Mẹ tôi phải đặt bánh lên bàn thờ tổ tiên trước đã sau đó những cái bánh không đẹp mới được cho chúng tôi ăn thử, ngon ơi là ngon, thích ơi là thích ...
Dường như những khó khăn đó không làm tan biến những ước mơ, hoài bão của tất cả mọi người luôn mong ngóng, tết đến cuộc sống của gia đình sẽ khác, tôi và các em được mừng tuổi, được mặc quần áo mới, mặc dù quần áo mới ấy là thứ bình thường thôi nhưng lại rất sung sướng đầy vui mừng.
Tết xưa là Tết theo quan niệm cũ, khi kinh tế nước ta chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Đó là những ngày của các lễ hội tưng bừng và diễn ra dài ngày. Khi đó người ta có quan niệm Tết là “ăn Tết”, chứ không phải “nghỉ Tết” như hiện nay. Người ta dành những gì ngon nhất, tốt nhất như thịt heo, thịt gà, trái cây, quần áo mới... cho những ngày Tết. Dù nghèo đến đâu cũng phải cũng phải sắm được một mâm cỗ để cúng giao thừa, lễ gia tiên, rước ông bà về cùng ăn Tết với con cháu.
Truyền thống Tết khắc sâu trong tâm thức người Việt cho đến tận bây giờ, tập quán đó gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp, quanh năm đầu tắt mặt tối, nhưng tết vẫn là những ngày thiêng liêng để mừng tuổi cha mẹ, ông bà, là những ngày thể hiện lòng hiếu kính với tổ tiên ông bà .
Một mùa xuân lại về nhưng tôi cảm giác không còn cái không khí bận rộn như lúc trước. Tết ngày nay đơn giản quá, cần thứ gì chỉ việc ra chợ mua là có ngay, những phong tục ngày tết cũng dần dần mất đi. Không còn cái không khí nấu bánh chưng bánh tét ở mỗi gia đình nữa bởi bây giờ thứ gì cũng có sẵn, được làm sẵn. Con người cũng trở nên thay đổi hơn, không còn bận rộn với ngày tết nữa mà giờ đến chiều mùng 2 là đã hết tết rồi. Mọi người lại lo lắng bắt tay vào công việc năm mới của mình.
Tết nay qua bao biến thiên của thời đại, theo dòng chảy của thời gian, đặc biệt trong thời đại hội nhập toàn cầu như hiện nay, quan niệm về Tết hình như thay đổi nhiều. Nền kinh tế đang phát triển, thu nhập người dân ngày một cao. Nhu cầu ăn ngon mặc đẹp là tự nhiên, được đáp ứng ngay khi có tiền, chứ không đợi đến Tết. Từ những nhu cầu thực tế đó cho thấy những thay đổi trong suy nghĩ về quan niệm Tết. Điểm thay đổi dễ thấy nhất là sự khác nhau giữa “ăn Tết” và “nghỉ Tết”. Còn nói chung, về cơ bản Tết cổ truyền vẫn chưa có sự thay đổi rõ nét. Tết vẫn là dịp để gia đình đoàn tụ, để người thân thăm viếng lẫn nhau. không khí Tết ngày nay so với ngày xưa giảm đi ý nghĩa nhiều. Nhưng tết cổ truyền vẫn là một sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam quan niệm đó sẽ phụ thuộc theo từng suy nghĩ và nhận thức của mỗi chúng ta …
Ngày Tết, ngày xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên của gia đình, nếu ở xa thì đây là những ngày nhớ thương da diết nhất. Trước tiên là nghĩ đến những người đã mất, nên thường tổ chức đi viếng mộ để tỏ lòng thành kính "uống nước nhớ nguồn". Mâm cơm cúng tất niên chiều 30 tết, thường quy tụ đủ mặt mọi người thân trong gia đình.
Ba ngày tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc mừng nhau những điều mới mẻ, tốt lành. Một tập quán phổ biến là trong những ngày đầu năm, mọi người đều chỉ nói ra những lời hay, ý đẹp, gặp nhau chào mừng, hy vọng mọi điều như ý, bao điều không vui, không vừa lòng năm trước đều bỏ đi.
Mồng một người ta thường hay đến cúng vái và thăm hỏi những nhà bên nội, mồng hai sang lễ tết bên nhà ngoại và mồng ba đến thăm thầy, vì thế có câu "Mồng một tết cha, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy". nhưng ngày nay thì trình tự đó trở nên lộn xộn, gặp đâu thăm đó, ai thân thì thăm, còn không thì thôi, kể cả bà con. Khi đến thăm họ hàng, bạn bè, người ta thường chúc nhau mạnh khỏe, sống lâu, hạnh phúc và may mắn gọi là "mừng tuổi", và "lì xì"
Ngày tết thường có nhiều trò vui đặc biệt như đá gà, chơi cờ, hội chợ ... đua thuyền, đánh bài, xem bói ... Những lễ tục phiền toái, lãng phí xa hoa, tốn kém thời giờ và tiền của, hoặc mang tính chất mê tín, dị đoan, những trò chơi đỏ đen có tính chất ăn thua, đều được loại bỏ và xa dần. Quan niệm kéo dài ngày tết cũng tùy theo vùng miền và tùy theo công việc, để để bù lại quanh năm vất vả cũng được sửa đổi để phù hợp với nhịp điệu cuộc sống khẩn trương của xã hội hiện đại. Nhưng không phải vì thế mà những nét đẹp cổ truyền đậm đà màu sắc dân tộc cũng như không khí vui tươi phấn khởi nhộn nhịp mang ý nghĩa mới chúc nhau thêm sức khỏe, niềm vui của ngày Tết lại giảm đi.
Cho gì đi nữa, ngày tết vẫn là ngày thiêng liêng nhất, cao quý nhất để chúng ta thể hiện tình cảm của con người với con người, của con người với người thân bạn bè và những người đã khuất, mong rằng những thế hệ sau cho dù giàu có, đầy đủ tiện nghi, công nghệ hiện đại, nhưng đừng quên ngày tết cổ truyền mà cha ông ta đã xây dựng qua hàng ngàn đời, là nét đẹp và phong phú được chắc lọc qua hàng ngàn thế hệ lưu truyền cho đến ngày nay.
Ở đâu ngày tết vẫn là ngày cao quý và thiêng liêng nhất trong mỗi con người chúng ta.