Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
tác phẩm/đoạn trích | tác giả | thể loại | hoàn cảnh sáng tác | nội dung chính | đặc sắc nghệ thuật |
làng | kim lân | truyện ngắn | năm 1945 trong thời kỳ đầu cuộc k/c chống Pháp | nó về tình yêu làng cuả, yêu quê của ông Hai | miêu tả tâm lý của nhân vậtôn qua hành động, ngôn ngữ |
lặng lẽ sa pa | truyện ngắn | năm 1972 khi tác giả đi công tác tại Lào \Cai | thể hiện sự ca ngợi những con người hi sinh thầm lặng, đóng góp công sức của mik cho đất nước | ||
Thứ tự | Tên văn bản | tác giả | năm sáng tác | nội dung và nghệ thuật chính |
1 | Chuyện người con gái Nam Xương | Nguyễn Dữ | TK 16 |
Nội dung: Niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ PK, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. - Nghệ thuật: Nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự và trữ tình… |
2 | Hoàng Lê nhất thống chí (hồi 14) | Nhóm tác giả: Ngô gia văn phái |
Đầu TK 19 |
- Nội dung: Hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống - Nghệ thuật: Tự sự kết hợp với miêu tả, chi tiết cụ thể, khắc họa nhân vật |
3 | Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) | Nguyễn Du | Đầu TK 19 |
- Nội dung: + Giá trị hiện thực: Là bức tranh hiện thực về một XH bất công, tàn bạo. + Giá trị nhân đạo: Là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người; lên án, tố cáo những thế lực xấu xa,… - Nghệ thuật: + Kết tinh thành tựu văn học dân tộc về ngôn ngữ, thể loại. + Thể thơ lục bát đạt tới đỉnh cao rực rỡ,… |
|
Hành động |
Lời nói |
Tâm trạng |
Trước khi nghe tin xấu về làng |
Ông lão nhớ làng da diết, muốn trở về làng, cùng anh em trong làng tham gia kháng chiến. Ông mong trời nắng cho Tây nó chết. Ông luôn quan tâm đến tình hình chiến sự, đến các tin chiến thắng của quân ta. |
|
Ông Hai lúc này đang trong tâm trạng vô cùng vui sướng, náo nức, vui mừng và tự hào trước thành quả cách mạng của quân ta: “"ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá". |
Khi nghe tin làng theo Tây Ban đầu
Những ngày sau đó
Khi nói chuyện với con |
Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rảnh rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”. Về đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn ra” |
Liệu có thật không hả bác, hay chỉ lại…
Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ dúng hắt hủi đấy ư…”.
|
Ông Hai sững sờ, bàng hoàng, xấu hổ, uất ức : “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy Đau đớn, tê tái |
Suốt mấy ngày ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà và nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là ông lủi ra một nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!” Ông băn khoăn không biết có nên tin hay không vì ở làng ông “ họ toàn là những người có tinh thần cả mà …”. Song chứng cứ như vậy thì sai làm sao được nên ông phải tin. Mụ chủ nhà biết chuyện và có ý đuổi khéo gia đình ông đi Ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng ngay lập tức ông đã gạt phắt ý nghĩ đấy đi. |
“Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù” |
Nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cũng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc. Ông bế tắc và tuyệt vọng khi nghĩ về tương lai của mình và gia đình. |
|
Trong lúc đau khổ, tuyệt vọng, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ ngây thơ.
|
“Húc kia,. Thầy hỏi con nhé, con là con ai?” Thế nhà con ở đâu ? Thế con có thích về làng chợ Dầu không ? Thế con ủng hộ ai ? Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ ? |
Trong tâm trạng đầy đau khổ và bế tắc, những lời trò chuyện giúp ông vợi bớt đi nỗi dằn vặt về quyết định của mình. |
|
Khi nghe tin cải chính |
Ông “bô bô” khoe với mọi người về cái tin làng ông bị “đốt nhẵn”, nhà ông bị “đốt nhẵn”. |
Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính…cải chính cái tin làng Chợ Dầu em Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn sai sự mục đích cả ! |
b, Truyện thơ thường là thơ lục bát, có tính nhạc, vần điệu, truyện thơ có sự việc, đối thoại, miêu tả, tình huống giống với truyện tự sự
Tham khảo:
a, Bài làm:
STT
Tên văn bảuâtn đoạn trích
Thể loại ( truyện kí, truyện thơ, kí, tiểu thuyết chương hồi)
Tác giả
Nội dung chủ yếu
Đặc sắc về nghệ thuật
1
Chuyện người con gái Nam Xương
Truyện truyền kỳ mạn lục
Nguyễn Dữ
Phẩm chất tốt đẹp và số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến
Khắc hoạ quá trình tâm lí và tính cách nhân vật, nghệ thuật kể chuyện sinh động, hấp dẫn
2
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
tùy bút
Phạm Đình Hổ
Cuộc sống xa hoa của vua chúa, quan lại phong kiến
Nghệ thuật viết tuỳ bút chân thực, hấp dẫn
3
Hoàng Lê nhất thống chí
cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi.
Ngô gia văn phái
Vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong chiến công đại phá quân Thanh, sự thảm bại của bọn xâm lược và số phận bi thảm của lũ vua quan phản nước, hại dân.
Lối văn trần thuật đặc sắc kết hợp với miêu tả chân thực, sinh động
4
Truyện Kiều
truyện Nôm bác học
Nguyễn Du
Cảm hứng nhân văn, nhân đạo, sự trân trọng sắc đẹp, tài năng, phẩm cách con người
Bút pháp nghệ thuật ước lệ, nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ hình tượng đặc sắc
5
Truyện Lục Vân Tiên
Truyện thơ Nôm
Nguyễn Đình Chiểu
Khát vọng cứu đời, giúp người, ca ngợi tinh thần trọng nghĩa, khinh tài
Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, lối kể chuyện tự nhiên, sinh động
b, Truyện thơ thường là thơ lục bát, có tính nhạc, vần điệu, truyện thơ có sự việc, đối thoại, miêu tả, tình huống giống với truyện tự sự
c, Kiều trước khi gia biến, lưu lạc: là người con gái sinh ra trong gia đình "bậc trung", sống kín đáo, được tôn trọng, vừa thông minh, xinh đẹp vừa tài năng, sống trong cảnh "êm đềm chướng rủ màn che" chưa vướng bụi trần.
=> Câu thơ "Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng" cho thấy tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với thân phận, cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội cũ.
d, Truyện truyền kì là một loại hình tự sự bằng văn xuôi, thuộc văn học viết. Theo Thi pháp văn học trung đại Việt Nam thì truyện truyền kì Trung Quốc thường có bố cục gồm ba phần:
Các tác giả Việt Nam theo truyền thống truyền kì Trung Quốc, nhưng lại có một quá trình hình thành và phát triển gắn liền với nền văn hóa và văn học dân tộc, đặc biệt là với văn học dân gian và văn xuôi lịch sử.
Các chi tiết kì ảo trong truyện Người con gái Nam Xương là:
Ý nghĩa các yếu tố kì trong bài:
e, Những chân dung những nhân vật lịch sử tương phản trong đoạn trích hổi thứ 14 của tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí đã đem lại bức tranh sống động, gay cấn vê' biến động lịch sử cuối thế kỉ XVIII và mở ra cái nhìn lịch sử qua những cá nhân cụ thể. Sự đối lập khắc họa rõ nét hình ảnh giữa người anh hùng Quang trung và lũ bè đảng bán nước cướp nước. Hình ảnh người anh hùng Quang Trung được khắc hoạ đậm nét với tính cách mạnh mẽ, với trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, với tài dụng binh như thần. Ông vừa là người tổ chức, vừa là linh hồn của những chiến công vĩ đại. Hình ảnh Quang Trung- Nguyễn Huệ càng trở lên chói lòa anh dũng bao nhiêu thì hình ảnh vụ vua Lê Chiêu Thống và bè lũ bán nước càng trở nên thảm hại bấy nhiêu. Vua Lê Chiêu Thống vội vã cùng mấy bề tôi thân tín đưa Thái hậu ra ngoài, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền dân để qua sông, luôn mấy ngày không ăn. Khi đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt” trông đến thật hèn kém, thảm hai vô cùng.
g, VD: Khi miêu tả Thúy Vân:
"Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhương màu da”
(Truyền Kiều- Nguyễn Du)
=> Qua nhiều hình ảnh ước lệ “khuôn trăng”, nét ngài” hay “ngọc”, “mây”, “tuyết” ta không kể hết được tỉ mỉ nhan sắc Thuý Vân nhưng ta biết được nhan sắc ấy rất tuyệt trần. Vẻ đẹp “trang trọng, dầy đặn” “nở nang, đoan trang”, “mây thua, tuyết nhường” luôn tạo cho mọi người xung quanh một tình cảm yêu mến, độ lượng . Vân hiện lên với chân dung một cô gái đoan trang, phúc hậu.