Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
thật ra mấy cái này có nhiều trên google lắm bạn, thay vì hỏi bạn có thể search ở trên đó luôn
- Không gian quanh lầu Ngưng Bích mênh mông, hoang vắng: "non xa, trăng gần, cát vàng,bụi hồng". Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bay mù mịt
- Thời gian "Mây sớm, đèn khuya" sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn. Qua đó thấy được Kiều thui thủi quê người một thân
- Tâm trạng Kiều bẽ bàng, buồn tủi, ngổn ngang. Qua đó ta thấy Kiều rơi vào hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi
Ngay từ trong những câu thơ đầu tiên của tác giả Nguyễn Du, ta đã có thể tưởng tượng ra cả bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều lúc này.Trong phong cảnh bao la bát ngát,giữa bầu trời rộng lớn, những đám mây xa xăm và cả một không gian tĩnh mịch buồn tẻ chỉ có nàng Kiều lặng lẽ ngắm ánh trăng tráng như lưỡi liềm kia nhưng ai mà thấu được sự cô đơn. Lẻ loi ,nhớ nhà ,nhớ người thương của nàng. Ai mà thấu được cái cảm giác tủi nhục ,đau đớn khi bị bán vào thanh lâu của một người con gái tài sắc vẹn toàn như nàng?
Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương trong kho tàng văn học dân tộc. Đọc Truyện Kiều, chúng ta không chỉ thấy được chủ nghĩa nhân đạo thắm thiết của Nguyễn Du qua những thân phận con người mà còn được chiêm ngưỡng những nét đẹp của con người, cuộc sống, thiên nhiên tạo vật. Và thiên nhiên trong Truyện Kiều vừa là đối tượng miêu tả vừa là phương tiện biểu hiện.Nguyễn Du rất tinh tế khi tả cảnh thiên nhiên. Cảnh và tình luôn gắn bó, hòa quyện. Nhà thơ luôn nhìn cảnh vật trong sự vận động theo thời gian và tâm trạng nhân vật. Đó có thể là cảnh ngày xuân tươi sáng, trong trẻo, tinh khôi, mới mẻ và tràn đầy sức sống như chính chị em Thúy Kiều thời ấm êm :
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Cảnh ngày xuân - Truyện Kiều)
Đó có thể là cảnh hoang sơ, lạnh lẽo, vắng vẻ, mênh mông, rợn ngợp, đượm buồn trước lầu Ngưng Bích khi Thúy Kiều bước chân vào con dường lưu lạc :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
(Kiều ở lầu Ngưng Bích - Truyện Kiều)
Thiên nhiên- một thế giới tuyệt đẹp hiện lên trong Truyện Kiều, được nhìn qua tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, thấm đượm yêu thương của Nguyễn Du.Nguyễn Du xây dựng thiên nhiên không chỉ là cái bình phong, là hình thức để ông ngụ tình. Thiên nhiên trong Truyện Kiều còn là đối tượng có vẻ đẹp tự thân, hiện lên chân thực, có hồn qua đó Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thắm thiết với thiên nhiên, tạo vật và qua thiên nhiên, thể hiện tình yêu thắm thiết với cuộc sống, con người.
Nguyễn Du đã hoạ được bằng thơ cái thần của thiên nhiên trong sáng tác của mình. Bức tranh mùa xuân là xúc cảm đẹp của nội tâm hai nàng Kiều và cũng là ước vọng của Nguyễn Du về tuổi trẻ, hạnh phúc, sự bằng an. Đó là cảnh sắc phới phới sức xuân trong “ Cảnh ngày xuân”:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Cảnh ngày xuân - Truyện Kiều)
Đây là bức tranh đầy sức sống được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật trước ngưỡng cửa tình yêu.Bức tranh thiên nhiên ngày xuân tươi đẹp và trong sáng ,cảnh xuân mang một vẻ đẹp mơi mẻ tinh khôi sinh động .có hồn ,đầy sức sống,khoáng đạt trong trẻo nhẹ nhàng thanh khiết. Cảnh chủ yếu được tả thực với nét chấm phá đầy sức gợi (từ điểm ) ,những từ ngữ giàu chất tạo hình. Bốn câu thơ mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc hữu hương hữu tình nên thơ được mở ra. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như đưa thoi. Cách nói dân gian “thời gian thấm thoắt thoi đưa” đã nhập hồn vào thơ ca Nguyễn Du để ông sáng tạo nên một câu thơ vừa miêu tả không gian, vừa gợi tả thời gian. Chim én được xem là loài chim biểu tượng của mùa xuân. Những cánh én chao liệng như “thoi đưa” ấy đã gợi lên một bầu trời bao la, thoáng đãng đầy sức xuân. Hai chữ đưa thoi rất gợi hình gợi cảm vút qua vút lai chao liệng để diễn tả thời gian trôi nhanh mùa xuân đang trôi nhanh. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân “Thiều Quang” của mùa xuân chín chục đã ngoài sáu mươi.“Thiều quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, ánh sáng ấm áp của mùa xuân, cũng là ẩn dụ để chỉ ngày xuân. Cách tính thời gian như thế thật là ý vị và nên thơ : tiết trời trong sáng, đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân nay “đã ngoài sáu mươi” rồi, tức là đã sang đầu tháng Ba rồi, mùa xuân đã bước sang tháng ba ánh sáng của mùa xuân hồng ấm áp. Từ “đã ngoài” ở đây kết hợp vời từ “đưa thoi” ở trên đã gợi lên trong lòng người đọc một sự tiếc nuối rằng mùa xuân sao đi qua nhanh thế. Nguyễn Du nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân, tưởng đó là một nghịch lí, nhưng nó lại có thật. Hơn hai trăm năm sau, Xuân Diệu lại một lần nữa cảm thấy như thế : “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa / Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” (Vội vàng). Làm sao không tiếc mùa xuân được cơ chứ khi vào lúc này, xuân đã hết dư vị của mùa đông nhưng vẫn chưa ngấp nghé vào hạ nên khung cảnh rất đẹp, rất xuân :
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân đã được vẽ nên bằng những nét phác họa, chấm phá tài tình của văn thơ cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ gợi hình gợi cảm để vẽ nên bức tranh ấy : “non” (sự mới mẻ, đổi thay của đất trời), “xanh” (sự sống, đâm chồi nảy lộc), “trắng” (tinh khôi, trong sáng, dịu dàng),… Những từ ngữ ấy vừa đem khí xuân đến tràn đầy trong từng lời thơ, vừa giàu chất tạo hình tới nỗi ta có cảm tưởng như trong thơ có họa. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ của Trung Quốc : “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa”, tác giả chỉ thêm vào hai từ “xanh”, “trắng” mà đã khiến cho sắc trắng của hoa lê nổi bật lên trên cái nền “xanh tận chân trời”, gợi lên vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết và khoáng đạt của mùa xuân. Lời thơ tưởng như chiếc cọ của người họa sĩ đang phối sắc cho từng đường nét của bức vẽ. Câu thơ tám chữ vốn có nhịp đôi, nhịp chẵn bỗng chuyển sang nhịp 3/5. Từ nhịp điệu bằng phẳng, quen thuộc, cách ngắt nhịp tài tình mang đầy dụng ý ấy của Nguyễn Du khiến câu thơ xôn xao với cái thần rất mới, rất lạ. Bức tranh ấy đã đẹp, nay lại được đại thi hào phả hồn vào đó bằng một chữ “điểm”. Có thể nói từ ấy chính là nhãn tự của cả đoạn trích, vừa làm câu thơ sống động hơn, vừa là nét vẽ hoàn chỉnh của bức tranh xuân. Chỉ cần một chút đảo ngữ ở “trắng điểm” và “điểm trắng” thôi đã đủ để nâng câu thơ lên một tầm cao mới. Tả mùa xuân đẹp và sống động như thế, thật không còn từ ngữ nào để nói lên sự tài tình trong bút pháp miêu tả gợi hình gợi cảm của Tố Như.
Thiên nhiên còn là một ẩn dụ để Nguyễn Du tả tình cảm của ông với con người, thế nên thiên nhiên ấy thắm đượm tình người. Tả cảnh ngụ tình là một trong những phương pháp quen thuộc và hiệu quả của các nhà văn, nhà thơ từ xưa tới nay. Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành một thứ bút pháp để Nguyễn Du miêu tả và khắc hoạ số phận, tính cách và nhất là nội tâm nhân vật, khiến cho nhan vật của ông hiện lên thật sinh động, chân thực, đem đến sự đồng cảm sâu sắc. Bức tranh trước lầu Ngưng Bích là bức tranh nét nên thơ nhưng bao la buồn vắng cô đơn như cảnh ngộ nàng Kiều :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
(Kiều ở lầu Ngưng Bích - Truyện Kiều)
Đây là bức tranh buồn bã lạnh lẽo được thể hiện qua cái nhìn của nhân vật trước số phận phong ba. Ngoại cảnh phản chiếu tâm trạng suy nghĩ của nàng Kiều khi bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật và tâm tình tìm được tiếng nói chung, tiếng nói của một trái tim đơn côi, một tâm hồn lạnh lẽo Điều đó thể hiện qua cái rợn ngợp của không gian đa chiều ( rộng ,cao ,xa )các hình ảnh vừa thực vừa vừa ước lệ (non xa ,trăng gần ,cát vàng ,bụi hồng ).
Ở một mình chốn lầu Ngưng Bích bơ vơ trơ trọi, với lời dụ dỗ ngọt ngào của bọn buôn người bất nhân. Nàng bị Tú Bà giam ở lầu Ngưng Bích cách biệt hẳn với cuộc sống bên ngoài
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Hai từ “khóa xuân” mang đầy vẻ mỉa mai, trách móc. Kiều bị đem ra lầu Ngưng Bích giam lỏng. Trong cảnh ngộ cô đơn éo le ấy, nàng chỉ còn biết trải lòng mình lên cảnh vật, gửi gắm tâm hồn vào thiên nhiên, lắng nghe tiếng thổn thức phát ra từ tận đáy con tim. Cảnh tượng nơi lầu Ngưng Bích này thật đẹp: có núi non xa, vầng trăng gần đều hút chung vào tầm mắt. Hai từ ngữ đối lập “xa – gần” cùng từ “ở chung” như góp phần hoàn thiện thêm cái cạnh tượng thật nên thơ nhưng cũng thật quạnh quẽ phía trước lầu. Trông ra bốn bề, nàng thấy một không gian rộng lớn bát ngát hiện lên.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Người đọc chỉ thấy cảch thiên nhiên trước mặt nàng , phía xa xa kia là núi .Trên đầu nàng là tấm trăng lạnh lẽo.Xung quanh nàng là bốn bề bát ngát .Từ láy “bát ngát ”gợi cho người đọc hình dung thấy , không gian nơi lầu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn, phẳng lặng không một bóng người. Phải chăng những cảnh vật tĩnh lặng này càng làm nổi bật lỗi cô đơn của Kiều.Nghệ thuật đảo ngữ ở đây làm ta cảm nhận rõ hơn cái rộng lớn của cảnh vật, cũng như cái trống trải của tâm hồn Thúy Kiều. Nhìn xa nhìn gần là ngổn ngang những cồn cát vàng trải dài vô tận, là những dặm bụi hồng xa xôi ngút ngàn. Phải chăng sự ngổn ngang của cảch vật cũng chính là sự ngổn ngang của lòng nàng Kiều. Các vế câu đối xứng nhau cùng những cặp từ “nọ - kia, xa – gần” như đợt sóng dồi tầng tầng lớp lớp trong tâm trí, xô đẩy thêm nữa cái tâm trạng lộn xộn của người con gái. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của tác giả thật vô cùng đặc sắc, diễn tả thật cảm động nỗi buồn và tình cảnh éo le của Kiều. Tình cảnh nàng Kiều lúc này thật chẳng khác gì sống trong địa ngục: thân xác bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, tâm hồn bị giam cầm trong vòng xoay khép kín của thời gian sớm - tối, và tình cảm thì bị giam hãm trong mớ tơ lòng rối bời. Phận nàng mới đáng thương làm sao! Bức tranh đầy ám ảnh, thấp thỏm, đầy sự vần vũ, thảng thốt, rợn ngợp để Nguyễn Du đồng cảm cùng nàng Kiều bé nhỏ, trơ trọi, kinh hoàng, vô vọng trước biển
Ngòi bút Nguyễn Du đã trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong nền thơ ca dân tộc. Thiên nhiên có mặt, trở thành bút pháp đã góp phần thể hiện sâu sắc âm vang những nghĩ suy của Nguyễn Du về con người.Qua cách miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du cho thấy một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, yêu tạo vật, một linh hồn “ mang mang thiên cổ”, một sự nhạy cảm, tinh tế, tài hoa khác thường. Sáng tác của Nguyễn Du đã dạy người đọc cách mở rộng lòng mình với tạo hoá, với cái đẹp, dạy chúng ta biết sống yêu đời.
- Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua góc nhìn của Thúy Kiều
+ Hoàn cảnh: bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, cô đơn tội nghiệp
- Cảnh vật trước lầu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn, tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát xa trông, non xa, trăng gần…
- Bao quanh Kiều là không gian, thời gian tuần hoàn đến nhàm chán càng nhấn đậm tình cảnh cô đơn, buồn tủi của Kiều
- Hoàn cảnh, kết hợp với cảnh vật khiến tâm trạng của Kiều chứa đầy uất ức, hờn tủi trước sự bế tắc không cách nào thoát ra được.
Từ ''bẽ bàng'' diễn tả tâm trạng cô đơn, tủi hổ của Kiều trước lầu Ngưng Bích. Kiều cảm thấy vậy vì Kiều nhớ Kim Trọng- mối tình đầu và lời thề nguyện đêm trăng, nỗi nhớ cha mẹ già không ai chăm sóc. Tâm trạng này được tác giả miêu tả ở 6 câu thơ đầu của đoạn trích (6 câu thơ em tự chép nhé vì có trong SGK rồi)
Em trở về nhà sau một ngày dài mệt mỏi với 3 tiết học văn trên lớp. Hôm nay, cô giáo dạy cho chúng em về bài Kiều ở lầu Ngưng Bích. Hình ảnh nàng kiều với những cô đơn tủi hổ vẫn ám ảnh trong em. Và bây giờ, ngay cả lúc đã lên giường đi ngủ, em vẫn cứ băn khoăn mãi trong lòng về những cô đơn của người con gái ấy. Trong giấc ngủ, em ngỡ tưởng mình đã bước vào một thế giới thần tiên, người nhẹ bẫng đi. Hóa ra em đã đến một nơi xa lạ nào đó và thấy một người con gái thật xinh đẹp. Nàng đang khóc trong nỗi tuyệt vọng. Em vô cùng bối rối và chợt nhân rag mình đã đến và gặp gỡ nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Nhìn nàng khóc em không biết nói gì hơn nên đã đi xung quanh lầu Ngưng Bích này một lần. Dường như những kiến thức trên lớp đã cho em hiểu hơn về thiên nhiên nơi đây dù mới lần đầu đặt chân đến. Đặt mình trong hoàn cảnh này, giữa bốn bề bát ngát xa trông em mới càng thấy thương cho thân phận nàng Kiều. Mọi thứ dường như đều bao la bát ngát, chỉ có nào một mình người con gái ở nơi đây cùng với một chiếc lầu lênh đênh giữa biển và biết cho đến bao giờ nàng mới có thể thoát khỏi nơi giam hãm tuổi xuân. Vầng trăng trên trời soi xuống mặt biển nhưng cũng chẳng thể trở thành người bạn trong cô đơn tủi hổ. Mọi thứ ứ trong không gian dường như cũng lắng đọng trong nỗi buồn của con người.
Thấy Thúy Kiều khóc lâu quá, em tìm đến bên và bảo: Tôi không phải người xấu đâu. Kiều có thể nói cho tôi về những nỗi buồn trong lòng kiều không? Cô gái bao lâu nay cô đơn dường như không tin rằng có một người bạn đến tâm sự với mình hoặc chính nàng cũng nghĩ mình đang trong một giấc chiêm bao lvà bèn kể cho em về tình cảnh tủi Hổ của mình. Em chưa bao giờ được gặp một người con gái nào xinh đẹp như thế. Ngay cả trong những dòng nước mắt nàng vẫn đẹp như ngòi bút Nguyễn Du đã miêu tả một hai nghiêng nước nghiêng thành. Cô bé kể cho em về mối tình với Kim Trọng bằng một sự hoài niệm và ân hận xa xăm:
_Tôi và chàng Kim đã có lời thề đính ước dưới ánh trăng. Vậy mà ngày nay tôi lại thất hứa trở thành kẻ xấu xa vì khiến chàng mỏi mòn trông chờ. Biết làm gì đây khi cuộc sống của tôi không còn là của chính tôi. Tôi thương chẳng Kim tôi cũng thương cha mẹ già yếu. Nay tôi đã bán mình chuộc cha nên chỉ mong rằng cha mẹ mãi mãi bình an. Sợ rằng hai em ở nhà tuổi còn nhỏ chưa đủ thấu hiểu để chăm sóc cha mẹ già yếu, tôi buồn và khổ tâm lắm! Nhưng đến chính bản thân tôi cũng chưa tìm được cách để có thể cứu vớt chính mình thì biết làm sao để có thể giúp đỡ cha mẹ, giúp đỡ người yêu nơi quê nhà.
Nàng vừa kể vừa khóc đến thương tâm. Tôi biết làm gì đâu ngoài vỗ vai an ủi nàng trong giờ phút ngắn ngủi. Có lẽ nàng ngỡ đây là chiêm bao nên có thể nói hết cõi lòng mình tủi hờn, đau khổ. Nàng kể tiếp cho tôi nghe về những ngày buồn nơi đây:
_Tú bà độc ác đã nhốt tôi ở một nơi chẳng thể chạy trốn, chẳng thể biết nghĩ gì hơn ngoài gặm nhấm nỗi đau. Mỗi buổi chiều tôi chỉ biết nhìn về phía xa xa nơi đó có những cánh buồm với những con người huyên náo- một điều quá xa vời với tôi bây giờ. Mỗi cánh hoa rơi trên mặt nước cũng trở thành một một yếu tố tác động đến tâm lý của tôi, tôi cứ ngỡ cánh hoa kia hay là mình trong thân phận nhỏ bé, tan tác. Rồi những nội cỏ, những chân mây- tất cả mang màu xanh tươi nhưng với tôi chúng đều rầu rầu tâm trạng buồn khổ của những ngày tháng cô đơn. Mỗi lần biển nổi sóng, mỗi khi những tiếng sóng vỗ mạnh vào lầu Ngưng Bích, dù tôi ngồi trên ghế ngồi nhưng vẫn có cảm giác mọi thứ như đang đánh vào suy nghĩ và cảm nhận của tôi. Nỗi đau ấy không còn chỉ là những nỗi đau tinh thần mà còn là một sự hành hạ đầy đau đớn đến thể xác mà chính bản thân tôi không biết làm gì ngoại khóc lóc khổ đau.
_Rồi Kiều cũng sẽ vượt qua mọi đau khổ thôi. Những kẻ ác nhất định sẽ bị trừng trị nên Kiều phải mạnh mẽ lên.
Tôi biết nói vì với người con gái yếu ớt trước mắt mình đây ngoài một niềm tin tưởng.
Chợt tôi giật mình tỉnh giấc. Thì ra chính là tiếng báo thức kêu inh ỏi. Vậy mà tôi cứ ngỡ tôi đã gặp nằng Kiều, tất cả chỉ là mơ. Nhưng giấc mơ ấy kì lạ mà ý nghĩa. Nước mắt tôi lăn dài, thì ra nước mắt cứ chảy dù là giấc mơ và tôi thêm hiểu, thêm yêu người con gái đáng thương ấy!