Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Vì khi vợ tiễn chồng , họ sẽ cảm thấy trong lòng mình như nặng nề , tha thiết . Giờ người họ thương yêu đã đi xa rồi , họ đương nhiên sẽ buồn , bất an . Người đã chịu bao gánh nặng trên vai giờ không còn thật là bất an. Họ sẽ rất lo lắng , liệu chồng mình còn có thể quay trở lại không ? Liệu khi đứa con của chúng ta ra đời có nhìn thấy cha nó không ? Những người vợ lúc nào cũng bồn chồn lo lắng . Nếu người chồng đi thì những thiên thần mới chào đời chẳng phải đã mất tình thương của cha sao ? .
Đôi khi có những ý kiến trái ngược . Có vợ sẽ không thủy chung . Đi theo một mối tình mới , họ đã quên tình nghĩa vợ chồng từ lâu rồi . Khi chồng vắng là tót chạy đến người tình nên nghĩ :" Chồng là cái quái j chứ "? . Đúng , họ nghĩ thế là 50 % là đúng .
=> Sai
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truyền kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là Vũ Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “Miếu vợ chàng Trương”:
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương... “
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ Nương - người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương và dễ dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và chồng rất phải đạo; là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù Trương Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức. Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trương Sinh đi lính thú thì hành động và lời lẽ đưa tiễn chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong chàng áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”..., “thư tín nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa...”, là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời. Vũ Nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng. Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “Xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ ... ”
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thật vô tình).
Nôi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của Vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, Trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư, mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội tình gì. Mãi đến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình. Chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông - người chồng vô học, đa nghi như Trương Sinh - là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công - “chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan niệm đặc điểm truyền thống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vô tội của mình bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một câu nói thơ ngây của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm mất đi người vợ quý trên đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát lòng này chính là do chiến tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam quyền trong xã hội ngày trước.
Tham khảo:
Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong thế kỷ XIX. "Truyện Kiều" của ông là đỉnh cao chói lọi và niềm tự hào lớn của nền văn học cổ Việt Nam.
"Trải qua một cuộc Bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Áng thơ tự sự - trữ tình này không chỉ là tiếng nói lên án những thế lực đen tối, tàn bạo trong xã hội phong kiến thối nát mà còn "thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của thi hào Nguyễn Du".
Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ "Truyện Kiều". Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu… Đó là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương trước bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ "bạc mệnh" trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng thương yêu con người bị áp bức, chà đạp.
Tinh thần nhân đạo trong ‘Truyện Kiều’, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân cùa cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". Kiều không chỉ đẹp "nghiêng nước, nghiêng thành" mà còn có một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:
"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm".
Kim Trọng, một văn nhân, tài tử "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoà". Là một "thiên tài" hội tụ của tinh hoa thời đại "văn chương nết đất, thông minh tính trời". Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đến cho đất trời cỏ cây hoa lá một sức sống đẹp tươi kỳ diệu:
"Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao".
Mối tình Kim Trọng – Thúy Kiều là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lể giáo phong kiến, rất trong sáng và thủy chung của "người quốc sắc, kẻ thiên tài".
Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gập tai biến, tài sản bị bọn sai nha "sạch sành vét cho đầy túi tham", cha bị tù tội. Kiều đã quyết hi sinh mối tình riêng để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thuý Kiều thể hiện đức hi sinh và thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động:
"Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân"
hay:
"Thà rằng liều một thân con,
Hoà dù rã cánh, lá còn xanh cây".
Đọc "Truyện Kiều", lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:
"Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ…"
Tình tiết "trao duyên" trong "Truyện Kiều" cũng là một nét rất đẹp cùa tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời ‘Hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai’, Kiều đã ‘cậy em’ và trao duyên cho Thúy Vân thay mình trả nghĩa ‘nước non’ với chàng Kim:
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung."
Tinh thần nhân dạo trong "Truyện Kiều" còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lí, những khát vọng về tự do.
Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình siêu phàm "Râu hùm hàm én mày ngài. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao". Những chiến công hiển hách, lẫy lừng "Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam". Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!". Người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện:
"Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha".
Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều "báo ân háo oán". Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân văn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy, tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hi vọng và niềm tin:
"Rằng: Từ là đấng anh hùng.
Dọc ngang trời rộng vẫy vùng hiển khơi".
Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc.
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã "Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan,… uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: ‘thương thay’, ‘hại thay’, ‘làm chi’, ‘còn gì là thân’ tựa như những giọt lệ chứa chan tính nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường:
"Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!".
Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kĩ nữ "nổi danh tài sắc một thì" nhưng mệnh bạc đau đớn "Sống làm vợ khắp người ta. Hại thay thác xuống làm ma không chồng". Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm thê thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ!
"Đau đớn thay phận đàn hà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc thông qua số phận và tính cách nhân vật trung tâm - Thúy Kiều – đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác "Đoạn trường tân thanh" cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động.
Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này, Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn tinh tế cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam.
Nguyễn Du và "Truyện Kiều" sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:
"Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…"
Giới thiệu chung về Truyện Kiều
Giới thiệu về giá trị của đoạn trích: đoạn thơ tiêu biểu cho nghệ thuật tả người.
Tài tình của Nguyễn Du là khi ông tả người, tả về bề ngoài con người nhưng chính là ông đã dự báo về số phận mai sau của họ.
Ông bắt đầu từ cái rất chung, giới thiệu những nét chung nhất về họ. “Đầu lòng hai ả tố nga..”.
Cả hai chị em đều đẹp, cái đẹp trọn vẹn của vẻ đẹp theo lí tưởng của xã hội và thời đại, đó là vẻ đẹp trọn vẹn nhưng “mỗi người một vẻ”.
Tả Thúy Vân: (4 câu)
Vân mang một vẻ đẹp “trang trọng khác vời” tạo cho người đọc ấn tượng về một vẻ đẹp quý phái.
Với những từ “trang trọng, đầy đặn, nở nang, đoan trang, mây thua, tuyết nhường” tạo tình cảm trân trọng, yêu mến, độ lượng. Đó là một vẻ đẹp dễ dàng được xã hội công nhận và dung nạp. Điều đó như dự báo, sắp đặt cho một cuộc đời yên ổn, không có bão tố.
Tả Thúy Kiều: (12 câu)
Kiều có những gì Thúy Vân có nhưng ở mức độ sắc sảo hơn, mặn mà hơn, khi Kiều xuất hiện, đến hoa kia, liễu nọ cũng phải ghen hờn.
Tả Kiều, Nguyễn Du không liệt kê nhiều chi tiết như khi tả Thúy Vân mà chỉ tập trung nhiều ở đôi mắt - cửa sổ tâm hồn. Từ cửa sổ tâm hồn ấy: “Tinh anh phát tiết ra ngoài; ngàn thu bạc mệnh một đời tài hoa”.
Kiều còn có vẻ đẹp của tài năng, nó đạt đến mức toàn diện, chuẩn mực của bậc tài hoa theo quan niệm thẩm mĩ của xã hội phong kiến, giỏi cả “cầm, kì, thi, họa”. Đặc biệt là tài đàn.
Nhan sắc ở Kiều độc đáo, kì lạ vượt lên trên sự bình thường. Đó là loại nhan sắc hiếm có trên đời, thường được tôn sùng và cũng thường bị đố kị lúc nào cũng gây ra sóng gió cho mình.
Tài của Kiều là cái tài toàn diện: cầm, kì, thi, họa mà tài nào cũng ở mức tuyệt đỉnh, trọn vẹn sắc đã hiếm có, tài lại hiếm có hơn. Thúy Kiều đúng là người hiếm có ở đời.
Ở Kiều là sự kết hợp giữa tài - sắc - tình - mệnh. Từ bức chân dung ấy, người ta có thể cảm nhận được kiếp đời chẳng mấy êm đềm của nàng. Vì như Nguyễn Du đã khéo léo mượn hai hình tượng đẹp nhất của thiên nhiên là hoa và liễu đặt bên đời Thúy Kiều với tình cảm hờn ghen. Tạo hóa trêu ngươi để đưa Thúy Kiều vào những trái ngang, đau khổ.
Đoạn thơ tiêu biểu cho nghệ thuật tả người của Nguyễn Du: bút pháp miêu tả giàu sắc thái cổ điển và nghệ thuật ước lệ quen thuộc trong văn chương trung đại. Đoạn thơ giàu chất nhân văn, thể hiện tấm lòng của nhà thơ luôn đề cao, trân trọng vẻ đẹp của con người.
Trong số hàng trăm đoàn cứu trợ ấy, chắc không ai nghĩ rằng những làng mạc tan hoang bởi hậu quả của trận lũ giữa tháng 10 lại tiếp tục gồng mình chống đỡ thêm một cơn lũ khác với độ ngập lụt và thiệt hại không thua kém trận lũ trước.
Vậy mà cái “điều không ai nghĩ” ấy lại đang diễn ra trên một địa bàn rộng lớn từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình và lần này có thêm một số vùng của tỉnh Quảng Trị.
Từ ba hôm nay, lũ lại dâng cao trên các triền sông, hàng vạn căn nhà, hàng vạn người dân lại chìm trong biển nước, tài sản nhặt nhạnh sau cơn lũ trước giờ đây lại tiếp tục bị cuốn trôi bởi trận lũ này!
Khó khăn đang chồng chất khó khăn. Những món quà cứu trợ vừa được trao giúp bà con trong đợt lũ trước nay trở thành thứ “hộ mệnh” khẩn cấp cho họ trong đận lũ này.
Nhưng không ít trâu bò, vật dụng… vừa được các đoàn cứu trợ trao cho bà con làm vốn để tái gầy dựng đời sống lại bị trận lũ này cuốn trôi tiếp. Những ngôi nhà vừa được chống dựng ngay ngắn lại bị trận lũ này tiếp tục xô đổ vẹo xiêu, những đường làng ngõ xóm ngập bùn đất rều rác vừa được anh em chiến sĩ phụ giúp dọn dẹp giờ lại trở về hiện trạng ngổn ngang hoang tàn như trận lũ trước…
Và cũng như những người dân Hà Tĩnh, Quảng Bình bị “đánh úp” trong cơn lũ với tốc độ nước dâng chưa từng có khiến không ai kịp trở tay, hôm qua hàng ngàn hộ dân của huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị cũng không kịp trở tay khi nước lũ đổ về cuồn cuộn với tốc độ chóng mặt.
Câu chuyện của lũ sẽ khó mà giải quyết nổi, khi những cuộc thảm sát tài nguyên rừng hàng chục năm qua biến hàng vạn hecta rừng thành đồi núi trọc đã khiến tốc độ dòng chảy của nước tăng gấp bội. Không có cây rừng cản, lượng mưa lớn khiến các dòng chảy nhanh chóng hợp lưu với nhau và ào ạt tràn về xuôi.
Trong khi đó, vùng hạ lưu đóng vai trò thoát nước cũng không giữ được vai trò của mình bởi những quy hoạch bất hợp lý làm cản trở dòng chảy, những hệ thống giao thông mới ở hạ du như những con đê quai giữ lũ dâng nhanh nhưng thiếu hệ thống thoát với lưu lượng tương ứng.
Nguyên nhân lũ dâng nhanh với tốc độ chưa từng có thời gian gần đây còn phải kể đến hàng chục hồ đập thủy điện, thủy lợi... mà ngoài lợi ích của chúng vào mùa khô hạn thì việc xả lũ để cứu đập khi mưa to nước lớn cũng góp phần vào tốc độ nước dâng ở hạ du.
Câu ca về mười quả trứng, bảy quả ung, ba quả nở ra ba con gà con thì “con diều tha, con quạ bắt, con (bị chim) cắt xơi” chính là câu chuyện “lũ chồng lũ” của “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí” trong cuộc mưu sinh truân chuyên của người dân Trung bộ.
Hơn bao giờ hết, những thiên tai dồn dập, những cú đánh úp “lũ chồng lũ” mà người dân miền Trung đang chịu đựng rất đáng được tính toán hoạch định trong một chương trình sinh kế lâu dài và bền vững từ phía Nhà nước và Chính phủ, chứ không thể chỉ trông chờ vào sự từ tâm của cộng đồng sau mỗi đận gian nan như những ngày này.