Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án
Phân tích mâu thuẫn trào phúng được thể hiện trong phần I. Chiến tranh và “người bản xứ” (Thuế máu – Nguyễn Ái Quốc) (5đ)
- Nhan đề chương: người bản xứ đặt trong dấu ngoặc kép để châm biếm những lời lẽ mị dân giả tạo của bọn thực dân. (0.5đ)
- Tác giả đi sâu vào sự mâu thuẫn, đối lập gay gắt trong thái độ của bọn thực dân khi đối xử với người dân thuộc địa trước và sau khi chiến tranh bùng nổ (HS lấy dẫn chứng) (1đ)
- Thấy được sự thay đổi trong cách đổi xử trên là sự lừa bịp trắng trợn của thực dân Pháp. Chúng không chỉ tàn bạo, độc ác mà còn nham hiểm, xảo quyệt, giả dối. Lời lẽ ngọt ngào “như viên kẹo bọc đường” đã gây nên bao cái chết bi thương của người dân vô tội. (1đ)
- Tác giả tiếp tục phân tích mâu thuẫn khi đối chiếu “cái vinh dự đột ngột ấy” với “cái giá khá đắt” mà người lính bản xứ phải trả. Sự thật là họ trở thành tấm bia đỡ đạn, công cụ sống để phục vụ cho chiến tranh đế quốc, nộp thuế máu cho bọn thực dân. Họ từ biệt vợ con, xa quê hương để bỏ xác phơi thây trên chiến trường. người ở hậu phương cũng bị bắt phục vụ lò lửa chiến tranh rồi số phận cũng không thoát khỏi cái chết => sự căm giận với tội ác của thực dân; thương cảm với số phận bi đát của người dân các nước thuộc địa. (1đ)
- Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. => hồi chuông cảnh tỉnh. (1đ)
- Giọng điệu trào phúng bao trùm, từ ngữ và hình ảnh có sức biểu cảm sâu sắc. Câu hỏi mang ý phản bác, chất vấn, luận tội gay gắt (chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy) (0.5đ)
→ Áng văn chính luận mẫu mực.
Dấu ngoặc đơn có tác dụng
a, (những người bản xứ) – giải thích
b, ( ba khóa là một loại còng biển lai cua, càng sắc tím đỏ, làm mắm xé ra trộn tỏi ớt ăn rất ngon) – thuyết minh
c, ( 701 – 762) – bổ sung thêm
Nếu bỏ phần trong dấu ngoặc đơn thì ý nghĩa của những đoạn trích trên không thay đổi, vẫn đầy đủ ý nghĩa.
* Bản chất của lính tình nguyện:
- Thực dân Pháp rêu rao rằng tuyển lính tình nguyện nhưng thực chất là bắt lính rất tàn bạo, dã man. Đây là cơ hội để bọn chính quyền tay sai ở các sứ thuộc địa ra tay cơ vét, mòn rút của nhân dân: Những kẻ có tiền sẽ đi tìm cách đút lót cho chính quyền tay sai của TD Pháp.
+ Những kẻ không có điều kiện chi tiền đành chấp nhận đi lính cho Pháp.
+Chiến tranh tàn khốc, người chịu hi sinh oan ức. Người bị tàn phế, thương tật suốt đời. Vì thế có nhiều người tự hủy hoại cơ thể mình để khỏi đi lính.
=> Ta thấy thực dân Pháp rất tàn bạo và vô cùng xảo quyệt. Chúng rêu rao là tuyển lính tình nguyện nhưng thực chất là lạm dụng để bắt người khác, những người không thuộc chủng tộc họ phải chiệu hi sinh.
* Đoạn văn:
Trước chiến tranh, những người bản xứ - người dân ở xứ thuộc địa của Pháp, đó là những người bẩn thỉu, họ bình đẳng, bị bọn thực dân Pháp khinh miệt tìm mọi cách để bóc lột, đè đầu cưỡi cổ. Người Việt Nam bị thực dân Pháp gọi bằng cái tên khinh miệt'' AN-nam-mít'' chỉ biết kéo xe, làm phu tại các đồn điền, luôn bị bọn quan Pháp đánh đập. Nhưng khi chiến tranh xảy ra, thực dân Pháp đang rất cần đến lực lượng tham gia chiến đấu. Lúc này người dân bản sứ được thực dâ Pháp vỗ về, vút ve, ca ngợi họ. Nhưng kêt qur của những những người bản xứ khi trở về không phải là những lời ca tụng như trước chiến tranh nữa. Mà thứ họ chịu đựng là sự hi sinh ở các chiến trường hoặc bị tàn phế thương tật suốt đời bị hất hủi.
Tham khảo:
Nội dung: Vạch trân bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời khi đề ra những thứ thuế vô lí cho người dân nông dân vô tội. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Nghệ thuật:
+ Tình huống truyện đặc sắc, có kịch tính cao.
+ Cách kể chuyện, miêu tả nhân vật chân thực, sinh động. Nghệ thuật tương phản làm nổi bật tính cách nhân vật
+ Ngòi bút hiện thực sinh động, ngôn ngữ đối thoại đặc sắc.
Năm 1925, tác phẩm "Bán án chế độ thực dân Pháp" của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp được xuất bản tại Pari. Tác phẩm đã tố cáo và kết án những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp, đồng thời phản ánh cuộc sống tủi nhục, đau thương của những người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới". Đoạn trích "Thuế máu" rút trong Chương I "Bản án chế độ thực dân Pháp" với nhan đề "Thuế máu" rất độc đáo, có giá trị tố cáo tội ác của bọn thực dân một cách đanh thép. Các tiêu đề bổ sung như: 1. Chiến tranh và người bản xứ: 2. Chế độ lính tình nguyện; 3. Kết quả của sự hi sinh - đã làm nổi rõ cái thứ vô cùng kì lạ và vô nhân đạo. Những người An-nam-mít, những nô lệ da đen phải làm bia đỡ đạn cho bọn thực dân Pháp và bị đối xử một cách vô cùng dã man. Ta hãy tìm hiểu và phân tích mục "Chiến tranh và người dân bản xứ".
Trước khi có chiến tranh thì những thanh niên "bản xứ" chỉ là "những tên da đen bẩn thỉu", "những tên An-nam-mít bẩn thỉu" chi biết làm cu-li kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị da trắng. Nhưng khi chiến tranh vừa bùng nổ, bọn thục dân đã xảo quyệt dùng mọi thủ đoạn lừa mị, bịp bợm biến nhũng kẻ khốn nạn ấy thành "con yêu " bạn hiền của các quan cai trị "phụ mẫu nhân hậu", của các quan "toàn quyền lớn, toàn quyền bé", họ được phong cho các danh hiệu tối cao là bảo vệ công lí và tự do. Tác giả đã sử dụng thủ pháp tương phản để vạch trần giọng lưỡi, thủ đoạn bịp bợm quắt quay của bọn thực dân trong việc bắt nô lệ "bản xứ" làm bia đỡ đạn, một cách đánh "thuế máu" vô cùng xảo quyệt. Các từ ngữ như "chiến tranh vui tươi" ,"lập tức họ biến thành", "đùng một cái", "được phong cho cái danh hiệu tối cao" đã làm cho giọng văn châm biếm trở nên sâu cay, mỉa mai. Nguyễn Ái Quốc đã gợi lên những mất mát đau thương của nhũng thanh niên bản xứ bị bắt đi làm bia đỡ dạn. Họ phải "xa vợ con, phải "rời bỏ" quê hương, mảnh ruộng, đàn cừu. Họ đi "phơi thây" trên các bãi chiến trường châu Âu. Có biết bao cảnh chết chóc thương tâm. Chết vì thủy lôi, "được xuống tận đáy biển để bảo tổ quốc của các loài quỷ quái". Bị "đem nướng", đã "bỏ xác" tại các vùng hoang vu Ban-căng, để " lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiêm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ". Xương máu của họ, cái chết của họ thật vô nghĩa, hoặc "anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát" trên bờ sông Mác-nơ, trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ, hoặc "lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy" hoặc "lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế". Tác giả đã kết hợp miêu tả với bình luận để mỉa mai, châm biếm cái "thuế máu" của bọn thực dân. Những người lính thợ không bị bỏ xác trên các bãi chiến trường thì lại bị đầu độc, phải lao động khổ sai, "làm kiệt sức" trong các xưởng thuốc súng ghê tởm "nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối". Những kẻ khốn khổ ấy "đã khạc ra từng miếng phổi" chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy ! Đó là một sự "trả giá" rùng rợn của "dân bản xứ" đối với chiến tranh. Những con số dưới ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thật sự Bảy mươi vạn người bản xứ bị đánh thuế máu, và trong số ấy có tám vạn người đã chết đau đớn, vô nghĩa không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Đọc mục "Chiến tranh và người dân bản xứ trong chương ta vô cùng xúc động trước số phận đau thương của những bản xứ, những nô lệ da đen, da vàng đã phải nộp "thuế máu" cho bọn thục dân Pháp trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng sắc sảo các thủ pháp nghệ thuật như tương phản đối lập, kết hợp miêu tả với bình luận, nêu lên những con số, những sự thực, đặc biệt tạo nên lững lời văn, giọng văn chua cay để vạch trần, để lên án, để châm biếm loại "thuế máu" một trong những hình thức bóc lột dã man nhất của thực dân Pháp. Trong suốt 80 năm thống trị nước ta, thực dân Pháp đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí , bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ. Sưu thuế dã man đã làm tan nát, điêu linh bao gia đình. Ta quên sao được hình ảnh anh Dậu "bị trói như gió để giết thịt", chú Hợi đã chết từ năm ngoái vẫn "không trốn được nợ nhà nước".Chị Dậu phải bán con, bán chó để nộp sưu cho chồng. Nhưng khi đọc chương 'Thuế máu" trong "Bản án chế độ thực dân Pháp", ta vô cùng kinh khủng về bộ mặt ghê tởm của bọn thực dân Pháp. là một trong những tội ác tày trời của chúng. "Thuế máu" đã bóc trần luận điệu "khai hoá", "bảo hộ" của thực dân Pháp
Văn bản "Thuế máu" của Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ thái độ đê mạt của đám quan cai trị thực dân.Trước chiến tranh, các đấng cai trị xem những người dân thuộc địa là “những tên da đen bẩn thỉu... giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta”. Chúng coi các dân tộc thuộc địa là chưa được "khai hoá văn minh", là "dã man", "mọi rợ",... Nhưng khi chiến tranh bùng nổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc lên, khoác cho những danh hiệu cao quý: những người bạn, những nhà ái quốc,... và rồi đẩy họ đi khắp các chiến trường.Cách đối xử của bọn thực dân lộ rõ bản chất bỉ ổi và thủ đoạn lừa bịp của chúng. Những người An Nam nói riêng và người dân các nước thuộc địa nói chung, vô hình chung đã trở thành vật hi sinh, trở thành những tấm lá chắn cho Pháp trên khắp các chiến trường.Và họ phải nhận lấy một số phận bi thảm, trở thành vật tế trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Họ đành chấp nhận đột ngột xa gia đình, quê hương vì những mục đích vô nghĩa, vì những vinh dự hão huyền mà các đấng "khai hoá" khoác lên mình họ. Họ bị biến thành những vật hi sinh cho lợi ích của bọn cầm quyền: phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng, trở thành mồi cho cá mập, vùi xác dưới những đáy biển lạnh lẻo,.... Những người không trực tiếp ra trận thì cũng bị vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm hoặc bị nhiễm bệnh bởi muôn vàn các chất độc hại khác mà chết. Những thống kê số liệu về sự hi sinh của những người dân đen tội nghiệp ấy càng khắc sâu thêm tình cảnh bi thảm của họ: Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.
Chiến tranh và người bản xứ :
Những tên da đen , tên '' an - nam - mít '' bẩn thỉu là những cái tên mà bọn thực dân Pháp đặt cho nhân dân ta . Chúng xem ta như nô lệ , những tên vô lại chả làm được j , cùng lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị . Chúng đánh đạp dân ta 1 cách dã nam , tàn bạo , coi thường ,khinh bỉ , dè bỉu . Thế mà , khi những cuộc chiến tranh bùng nổ , thì chúng lập tức gọi ta là '' những đứa con yêu'' , '' những người bạn hiền '' . Được cấp trên yêu quý , được bề dưới tôn nghiêm . Chỉ loáng một cái mà ta đã trở thành '' chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do '' . Tưởng đó là vui sướng , vì cái danh hiệu '' chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do '' mà những trai tráng trong làng phải xa gia đình , lìa vk con để đi chiến đấu vì tổ quốc . Những đứa con yêu ư ? Những người bạn hiền ư? . Trong lúc ta phải chiến đấu gian khổ , phơi thấy trên đường lột da trên cát , thì những quan cai trị ở đâu ? những quan toàn quyền ở đâu ? . Chúng đang ở nhà xơi bánh uống nước chứ ở đâu ! Chúng bắt ta lấy máu tưới vào vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy , lấy xương của ta chạm vào những chiếc gậy của các ngài thống chế . Rồi những người kiệt sức trong các xưởng thuốc ghê tởm . Bấy h bộ mặt của bọn thực dân mới lộ ra , nhưng lúc ấy đã quá muộn , tổng cộng có 70 vạn người bản xứ đặt chân lên đất Pháp và trong số ấy thì tám vạn người ko còn nhìn thấy mặt trời trên quê hương đất nước mk nữa . Từ đó , tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân , gây lòng căm thù mãnh liệt trong nhân dân , các dân tộc thuộc địa .
Nghệ thuật của đoạn trích được thể hiện qua:
- Cách sử dụng từ ngữ: khẳng định được sự tồn tại lâu đời, hiển nhiên về nhiều phương diện.
- Thể cáo được viết bằng lối văn biền ngẫu, có đối, các câu dài ngắn không bị gò bó, các cặp có ai vế đối nhau.
- Lời lẽ có tính hùng biện, lập luận đanh thép, lí luận sắc bén.
- Kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.