Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tôi là cây gỗ lim xanh trong một khu rừng tại Việt Nam. Tôi có một cơ thể cứng, chắc, nặng và bền. Tôi cao khoảng 30m và rộng khoảng 0,7 - 0,9m. Tôi ưa bóng khi nhỏ nhưng tôi lại ưa ánh sáng khi lớn. Xung quanh người tôi có những đường vân xoắn rất đẹp mắt. Khi tôi vẫn còn là một cái cây nhỏ và non, tôi màu vàng nâu và khi tôi già đi, tôi màu vàng đen. Mùa hè, tôi tận hưởng ánh nắng từ mặt trời. Mùa xuân tôi thỏa thích đu đưa theo những cơn mưa bay nhè nhẹ. Mùa thu, tôi đu đưa những chiếc lá theo những cơn gió nhẹ nhàng lướt qua. Mùa đông, tôi cùng các bạn gỗ lim khác được những làn sương phủ mịt mù. Cứ như thế, từng ngày, từng năm trôi qua một cách yên bình. Bỗng dưng một ngày, có một số người đến khu rừng tôi đang sinh sống để khai thác gỗ. Chẳng may, tôi được họ chọn. Họ đánh dấu vào người tôi và dùng rìu chặt đôi cơ thể tôi. Họ mang tôi về và thay đổi hình dạng của tôi. Một tháng sau, có một đôi vợ chồng già đến và mua tôi ở hình dạng mới về...
Tôi là cây bạch đàn cả họ nhà tôi ai cũng trắng muốt như nàng bạch tuyết trong câu truyện cổ tích mà bọn trẻ vào rừng hay kể cho nhau nghe thân tôi trắng lá thì nhỏ và khá giống lá trúc vì có thân hình trắng muốt lên gia đình tôi là thành phần của giấy đấy nên tôi rất háo hức vì sẽ là những cuốn sách những bài kểm tra điểm 9 , 10 của học sinh làm tôi thấy rất vui nhưng có lẽ muốn tôi thành những miếng giấy chắc là đau lắm nhưng tôi sẽ cố nhịn để các bạn học sinh có sách đến trường.
Trời này mát quá những ánh nắng vui đùa trên những chiếc lá của tôi kìa nhưng tôi buồn ngủ quá tạm biệt nhé nếu lớn lên tôi biến thành giấy thì mong các bạn hãy học giỏi nhé zzzzzzz
Câu 1: A
Câu 2: C
Câu 3: B
Câu 4: A
Câu 5: C
Câu 6: D
Câu 7: Biện pháp tu từ điệp cấu trúc "Tôi muốn..". Tác dụng:
- Tăng tính biểu hình biểu đạt gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
- Tạo giọng điệu tha thiết cho đoạn thơ
- Làm nổi bật mong muốn khát khao của nhà thơ muốn bất tử hóa vẻ đẹp của mùa xuân nơi trần thế, muốn cất giữ mọi cái đẹp của mùa xuân tận sâu trong trái tim mình để không bao giờ phai nhạt.
Câu 8: Thông điệp mà tác giả gửi gắm trong đoạn thơ trên "hãy mở lòng để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời". Bởi:
- Chúng ta chỉ sống một lần vì vậy đừng ngần ngại tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời này trong đó có vẻ đẹp thiên nhiên của đất trời.
- Tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên để biết cách yêu thương và trân trọng thiên nhiên quanh ta nhiều hơn.
haizzzz... tôi cx muốn bt tình là jì, tại sao nó lại làm con người ta đau khổ,lầm lỗi,tuyệt vọng....giải thick giúp tôi cảm ơn
Câu 1:
“Dân chài lưới làn da đen rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”.
Sau một ngày ra khơi, đoàn thuyền trở về trong sự đón đợi của dân làng “khắp dân làng tấp nập đón ghe về”. Cách gọi có sự đổi thay, từ những “chiếc thuyền” chuyển sang “ghe” mang đậm tính địa phương vùng biển, người đọc hiểu rằng trong từng câu chữ đều thấm đượm một tình yêu cháy bỏng. Hình ảnh “những con cá tươi ngon thân bạc trắng” báo hiệu một chuyến ra khơi tốt đẹp và càng tô thêm sức sống cho bức tranh vùng vạn chài. Nổi bật lên trên nền bức tranh đó là những người dân chài. Tế Hanh đã chọn lọc những nét tiêu biểu, đúng chất nhất để nói về người dân quê mình. Đó là những con người khỏe khoắn, rắn rỏi với “làn da ngăm rám nắng”, làn da đã trải qua bao sương gió. Họ là những người lao động thực sự. Đặc biệt, nhà thơ đã nói lên nét đặc trưng của người miền biển với hình ảnh giàu sức gợi cảm: “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”. Những chàng trai chài lưới hiện lên mang vẻ đẹp kì vĩ, cường tráng sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ. Ở họ có nét đẹp của con người đã hiên ngang chinh phục thiên nhiên. “Vị xa xăm” là vị vô hình, vị lao động miệt mài, vị của thiên nhiên hòa lẫn với con người. Hình ảnh vừa thực mà vừa lãng mạn, đầy chất thơ. Có lẽ chất muối của biển không chỉ thấm vào những con thuyền, thấm vào những người dân chài mà đã thấm đượm cả trang thơ Tế Hanh.
Hình ảnh quê hương trong dòng hồi tưởng của nhà thơ khép lại với hình ảnh bình yên: “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm - Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Dù là “bến mỏi” nhưng không gợi nên sự rã rời, mệt mỏi mà ở đó là sự nghỉ ngơi thư thái chuẩn bị cho một chuyến ra khơi lại sắp sửa.
Chúc bạn học tốt!!!
Câu 2:
* Hoàn cảnh ra đời của văn bản "Thuế máu":
Văn bản "Thuế máu" được trích từ chương I cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp - một tác phẩm chính luận của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu tiên tại Pa-ri năm 1925, xuất bản lần đầu tiên ở
Việt Nam năm 1946. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp ra đời trong thời kì chủ nghĩa thực dân Pháp thực hiện âm mưu "khai thác triệt để' thuộc địa. Sau đại chiến thứ nhất, bọn đế quốc Pháp phản bội mọi lời hứa hẹn tốt đẹp với nhân dân thuộc địa. Hơn nữa, chúng ra sức tăng cường toàn bộ chính sách bóc lột, đàn áp hết sức dã man, với những kế hoạch quy mô, những tổ chức có hệ thống về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa. Hầm mỏ, nhà máy, đồn điền cao su tập trung hàng nghìn công nhân là những địa ngục trần gian. Thuế má nặng nề, phi lí, rượu cồn, thuốc phiện..., giam hãm người nông dân trong cảnh bần cùng, đói rét. Bộ máy quan lại được củng cố, trở thành những công cụ đắc lực, bắt bớ những người yêu nước và bóc lột đến tận cái khố rách của nhân dân thuộc địa. Chúng thi hành mọi chính sách thâm hiểm và trắng trợn chống lại nền văn hóa dân tộc. Nấp sau chiêu bài "Bình đẳng, Bác ái", và nhiều khi không cần chiêu bài gì, chúng muôn biến những dân tộc bị áp bức thành những dân tộc đời đời làm nô lệ. Để thực hiện những âm mưu ấy, chủ nghĩa đế quốc Pháp xuất khẩu những tên thực dân sang thuộc địa. Bọn này hùng hổ kéo từng đoàn, từng lũ sang thuộc địa để vơ vét, chém giết, dưới khẩu hiệu lừa bịp “khai hóa ". Dù che giấu dưới cái vẻ hào nhoáng nào, chúng vẫn lộ nguyên hình là những con quỷ dữ. Đó là hình ảnh cụ thể nhất của chủ nghĩa đế quốc "ăn bám" và "thối nát". Bản án chế độ thực dân Pháp của Hồ Chủ tịch đã miêu tả quá trình tiêu vong của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn giãy chết của nó, qua hình tượng những tên thực dân dưới nhiều hình dáng.
* Ý nghĩa nhan đề của văn bản "Thuế máu":
Một nguyên tắc được quán triệt thâu đáo trong quan điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn luôn phải xác định một cách rõ ràng đối tượng, mục đích (Viết cho ai? Viết để làm gì?), từ đó đề ra phương pháp cụ thể (Viết như thế nào?). Có thể nói, thành công lớn nhất về mặt nghệ thuật của Bản án chế độ thực dân Pháp nói chung và chương Thuế máu nói riêng là trên phương diện bút pháp. Mọi yếu tô" từ lời văn, câu chữ, kết cấu, giọng điệu... đều được vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đáp ứng các yêu cầu về đối tượng, mục đích của tác phẩm.
Về mục đích: viết để tô" cáo tội ác của thực dân Pháp (như tên tác phẩm đã nêu) ở các nước thuộc địa.
Về đôi tượng: đây là vấn đề phải được xem xét kĩ lưỡng. Đối tượng trực tiếp của Bản á«....không phải là nhân dân Việt Nam với hơn 90% dân sô" mù chữ lúc bấy giờ. Đối tượng của tác phẩm là nhân dân Pháp, mở rộng ra là dư luận tiến bộ trên toàn thế giới. Dù ở nhiều thành phần khác nhau nhưng họ đều có một đặc điểm cơ bản, đó là trình độ văn hoá rất cao nhưng lại chưa hiểu biết gì nhiều về các nước thuộc địa, do đó dễ dàng bị giai cấp thống trị lừa gạt. Nhiều người tin rằng, quân đội Pháp đang thực hiện những sứ mệnh cao cả, đó là đem lại hạnh phúc, no ấm cho các dân tộc thuộc địa.
Với đối tượng như vậy, chọn cách viết như thê" nào? Nếu đứng về phía nhân dân các nước thuộc địa mà tô" cáo e sẽ khó tạo được sự hấp dẫn cho bạn đọc, do đó khó đạt được hiệu quả mong muôn. Bởi vậy, thay vì tô" cáo trực tiếp, tác giả Nguyễn Ái Quốc đã chọn cho mình vị trí trung lập, khách quan, thậm chí đứng từ góc nhìn của người Pháp để khái quát vấn đề. Góc nhìn ấy đã tạo ra một giọng điệu châm biếm rất sâu cay khiến cho thực dân Pháp rất tức tối mà không làm gì được (về mặt pháp lí).
Gây ấn tượng với bạn đọc trước tiên là nhan đề: Thuế máu.
Là một công dân bình thường, không ai xa lạ với chuyện đóng thuê": thuê" đường, thuê' chợ, thuê" ruộng đất, thuê" kinh doanh... Những người Pháp quan tâm đến văn học thuộc địa có thể biết ở Việt Nam (lúc bấy giờ) người dân phải đóng thuê' thân, không những người sống mà đến cả người chết cũng phải đóng (?) (Tắt đèn - Ngô Tất Tố) nhưng không ai có thể tưdng tượng nổi một thứ thuê" ghê rợn đến thế: thuế máu. Khi các quan cai trị cần tiền, cần rất nhiều tiền, họ không ngại ngần gì mà không tăng thuê", đồng thời vẽ ra đủ các thứ thuê" vô lí mới, bất chấp những người nô lệ è lưng ra cũng không gánh nổi bởi vì những người nô lệ làm gì có quyền đấu tranh? Tương tự như vậy, khi các quan muốn củng cố địa vị cho mình bằng các cuộc chiến tranh hao tổn xương máu, hà cớ gì không bắt đám dân nô lệ “dễ bảo” kia đem xương máu ra mà cống nộp? Và thế là thuế máu ra đời.
Chúc bạn học tốt!!!
Phần kết | Cái chết của cô bé bán diêm |
- Những điều mọi người nhìn thấy: có một cô bé đã chết trong một xó tường với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. - Những điều mọi người không biết: thực ra cô bé đó đã chết vì đói, vì rét trong đêm giao thừa. |
(1) Thời gian: vào đêm giao thừa.
Không gian: trời băng, đất giá, gió, tuyết bay đầy đường.
(2) Những hình ảnh tương phản:
+ Trời băng, đất tuyết >< đầu trần, chân đất.
+ Những bữa tiệc no đủ >< Bụng đói cồn cào.
+ Mọi người quây quần, sum họp >< Một mình bơ vơ trên phố.
- Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh tương phản như thế nhằm mục đích cho ta thấy được hình ảnh của cô bé bán diêm đáng thương, cho ta biết những khao khát của em về một cuộc sống tốt đẹp. Đó cũng chính là những mong ước chân thành, giản dị và chính đáng của bất cứ đứa trẻ nào trên thế gian này.
(3) Những mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu bay đi) lại diễn ra theo trình tự hợp lí vì do trời rét, cô bé lại vừa quẹt que diêm nên nghĩ ngay đến lò sưởi, tiếp đó cô đói nên mộng tưởng đến bàn ăn với ngỗng quay lúc bấy giờ, sau bức tường nhà nhà đang đón giao thừa nên cây thông Nô-el hiện lên. Lúc đó cô bé nhớ đến mình từng hạnh phúc lúc có bà, nên hình ảnh bà nội em hiện lên.
(4) Những điều gắn với thực tế, những điều gắn với mộng tưởng:
- Lần quẹt diêm thứ nhất: hiện lên lò sưởi -> mộng tưởng gắn với thực tế.
- Lần quẹt diêm thứ hai:
+ thấy bàn ăn có con ngỗng quay -> mộng tưởng gắn với thực tế.
+ con ngỗng nhảy ra khỏi đĩa -> chỉ là mộng tưởng.
- Lần quẹt diêm thứ ba: Cây thông noel hiện lên rực rỡ với rất nhiều nến -> mộng tưởng gắn với thực tế.
- Lần quẹt diêm thứ tư: Hình ảnh bà hiền dịu, nắm tay em bay lên trời ->chỉ là mộng tưởng
c) Nhận xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Cô bé bán diêm:
- Nghệ thuật: Sự dụng nghệ thuật đối lập, tương phản đan xen với thực tế và mộng ảo, mang đậm yếu tố cổ tích.
- Nội dung: Tác phầm Cô bé bán diêm của An-đéc-xen đã truyền cho chúng ta lòng thương cảm sâu sắc đối với một em bé bất hạnh.
P/s: Đúng tick mk nhoa
Văn bản mà em thích nhất là văn bản những cánh buồm
Nội dung của văn bản nói về tình cha con thiêng liêng và ước mơ của hai cha con dc khám phá những vùng đất xa xôi
lí do em thích là vì bài rất hay và cách đọc giản dị,chân thành
Trong chương trình học của mình, em thích nhất là văn bản Người cầm quyền khôi phục uy quyền.Câu chuyện nói về một người tên là Giăng Van - giăng vì muốn cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan, ông buộc phải tự thú mình là tù nhân của sáu năm trước đã vượt ngục. Vì thế, ông phải đến từ giã Phăng-tin khi nàng chưa biết gì về sự thật tàn nhẫn. Câu chuyện kể lại tình huống Gia-ve dẫn lính đến bắt Giăng Van-giăng khi ông đến thăm Phăng-tin lúc nàng đang hấp hối. Ban đầu, Giăng Van-giăng chưa mất hẳn uy quyền của một ông thị trưởng. Vì không muốn dập tắt niềm hi vọng của Phăng-tin ông phải hạ mình trước Gia-ve. Nhưng Gia-ve vẫn tàn nhẫn tuyên bố Giăng van-Giăng chỉ là một tên tù khổ sai vượt ngục và hắn sẽ bắt ông. Phăng-tin tuyệt vọng tắt thở. Căm phẫn trước sự tàn ác của Gia-ve, Giăng van-giăng khôi phục uy quyền khiến hắn phải run sợ và làm những nghĩa vụ cuối cùng đối với Phăng-tin.
Điều em thích ở văn bản này là ở nhân vật Giăng Van-giăng. Ông tuy trước kia là một người lao động nghèo nhưng với tấm lòng yêu thương, ông phải bị kết án tù khổ sai mười chín năm. Và cũng vì xuất phát từ lòng yêu thương đó ông đã khai nhận mình là Giăng Van-giăng để cứu sống một con người, điều này cho thấy ông là người có tấm lòng tốt bụng, bao dung và hy sinh, khi ông chịu nhịn nhục để cho Phăng-Tin an tâm những ngày cuối cùng của mình, ông hứa sẽ tìm thấy con trai của cô.