K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Bài tập 1
Đọc ngữ liệu sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
(Vội vàng, Xuân Diệu)
a/ Xác định 2 thành phần nghĩa của 4 câu thơ đầu?
b/ Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên?
c/ Hãy xác định từ loại và nghĩa của từ "hoài" trong câu thơ: "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"?
d/ Dựa vào đoạn thơ trên chứng minh Xuân Diệu là một nhà thơ mới?
Bài tập 2
Đọc ngữ liệu sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt....
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.
(Vội vàng, Xuân Diệu)
a/ Xác định 2 thành phần nghĩa của 2 câu thơ sau (
"Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại"
b/ Nêu nội dung chính của đoạn thơ
c/ Tìm 4 từ ngữ thể hiện sự ám ảnh và nỗi lo lắng của thi nhân khi nghĩ về sự hữu hạn của đời người
d/ Giải thích nghĩa của câu thơ: "Mau đi thôi mùa chưa ngã chiều hôm"
Bài tập 3
Đọc phần dịch thơ bài Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh và trả lời câu hỏi ở dưới
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
NAM TRÂN dịch
(HỒ CHÍ MINH toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)
a. Xác định thể thơ?
b. Hai câu thơ cuối tác giả đã gợi ra cảnh gì?
c. Cho biết ý nghĩa hình ảnh lò than rực hồng?
d. Vẻ đẹp tâm hồn của Bác trong hai câu thơ cuối?
Bài tập 4
Đọc phần dịch thơ bài Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh và trả lời câu hỏi ở dưới
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
NAM TRÂN dịch
(HỒ CHÍ MINH toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)
a. Cho biết sự vận động của cảnh vật trong bài thơ?
b. Sự vận động của tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ?
c. Sự vận động của cảnh vật và tậm trạng cho ta hiểu gì về con người Hồ Chí Minh?
Bài tập 5
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước cách mạng tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, vẽ để ngắm cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ cũng không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên. Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn. Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra như những lớp sóng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Tôi chọn lọc trong nhiều khả năng biểu hiện hình ảnh "Củi một cành khô lạc mấy dòng" không phải là một thân gỗ xuôi dòng, một đám bèo xanh trôi nổi mà là một cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sông...
(Huy Cận, Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, 1994)
a/ Văn bản giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề gì liên quan đến bài thơ Tràng giang của Huy Cận?
b/ Xác định câu văn có sử dụng biện pháp tu từ so sánh trong văn bản? Nêu hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng biện pháp tu từ đó?
c/ Giải thích từ tràng giang trong đoạn thơ?
Bài tập 6
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
(Tràng giang, Huy Cận)
1/ Tìm những chi tiết tác giả miêu tả dòng sông?
2/ Hình ảnh "củi một cành khô" gợi cho anh/ chị cảm nhận gì?
3/ Nghệ thuật nào được sử dụng ở đây? Tác dụng của việc sử dụng nghệ thuật đó?
Bài tập 7
"- [...] Còn một điều nữa tôi cũng muốn nói với anh. Tôi thì vào nghề đã lâu, còn anh thì mới bắt đầu đi làm, nên với tư cách là bạn đồng nghiệp đi trước, tôi thấy có nghĩa vụ phải nhắc nhở anh đôi điều. Anh đã đi xe đạp và cái trò giải trí ấy hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên.
- Vì sao vậy? – Cô-va-len-cô hỏi lại bằng giọng trầm trầm.
- Chẳng lẽ điều này lại còn cần phải giải thích nữa sao? Chẳng lẽ đó lại là điều khó hiểu ư? Nếu thầy giáo đi xe đạp thì học sinh sẽ làm gì? Lũ trẻ chỉ còn thiếu nước là đi đầu xuống đất thôi. Vả lại nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hôm qua tôi sợ phát kinh lên đấy! Khi tôi nhìn thấy chị của anh, mắt tôi hoa lên. Đàn bà con gái mà đi xe đạp thì quả là chuyện kinh khủng!"
a) Hãy cho biết tên của nhân vật "tôi" và xuất xứ đoạn trích trên?
b) Nội dung của đoạn trích?
c) Từ đoạn trích trên, anh/chị thấy điều cần phê phán ở nhân vật "tôi" là gì?

===))) M.ng giúp em với ạ 😭😭 Thankk youuu so muchh

0
18 tháng 1 2018

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích.

2. Thân bài:

- Cảm nhận tình yêu cuộc sống của Xuân Diệu qua đoạn thơ

Về nội dung

* Xuân Diệu đã phát hiện ra thiên đường ngay trên mặt đất, không xa lạ mà rất đỗi quen thuộc ngay trong tầm tay của chúng ta:

- Đó là bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, niềm vui và sức sống, được thể hiện qua hàng loạt các hình ảnh : ong bướm, hoa lá, yến anh, tuần tháng mật...

   +) Màu sắc: màu xanh rì của đồng nội, màu của lá non, màu của cành tơ phơ phất...=> Gợi hình ảnh non tơ, mơn mởn.

   +) Âm thanh: khúc tình si của yến anh

- Bức tranh thiên nhiên ấy còn được vẽ lên với vẻ xuân tình: mối quan hệ của thiên nhiên, cảnh vật được hình dung trong quan hệ như với người yêu, người đang yêu, như tình yêu đôi lứa trẻ tuổi, say đắm. Các cặp hình ảnh sóng đôi như ong bướm, yến anh càng làm bức tranh thiên nhiên thêm tình ý.

=> Xuân Diệu đã khơi dậy vẻ tinh khôi, gợi hình của sự vật, nhà thơ không nhìn sự vật ấy bằng cái nhìn thưởng thức mà bằng cái nhìn luyến ái, khát khao chiếm hữu.

- Bức tranh thiên nhiên đời sống con người càng đằm thắm, đáng yên hơn khi:

“Mỗi……môi gần”

=> Với Xuân Diệu cuộc sống là vui và mùa xuân là đẹp nhất.

* Tâm trạng của nhà thơ

- Niềm sung sướng hân hoan, vui say ngây ngất trước vẻ đẹp của cuộc sống trần gian.

- Tâm trạng vội vàng, nuối tiếc thời gian, nuối tiếc mùa xuân ngay cả khi sống giữa mùa xuân.

Về nghệ thuật

- Mới mẻ trong cách nhìn, cách cảm nhận cuộc sống; quan niệm thẩm mĩ hiện đại; phép điệp, liệt kê, so sánh, chuyển đổi cảm giác.

- Cấu trúc dòng thơ hiện đại.

3. Kết Bài: Đánh giá

Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu.

Tình yêu đời của Xuân Diệu đem đến quan niệm nhân sinh tích cực.

Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ảnh sáng chớp hàng mi, Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gð cửa, Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng Nhưng vội vàng một nửa. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. (Trích Vội vàng, Xuân Diệu, Tr 22, SGK Ngữ văn 11,Tập II, NXBGD 2007) (2)Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lả vàng? Với...
Đọc tiếp

Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ảnh sáng chớp hàng mi, Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gð cửa, Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng Nhưng vội vàng một nửa. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. (Trích Vội vàng, Xuân Diệu, Tr 22, SGK Ngữ văn 11,Tập II, NXBGD 2007) (2)Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lả vàng? Với của hoa tươi, muôn cánh rã, Về đây đem chắn nẻo xuân sang! ( Trích Xuân, Chế Lan Viên) 1/ Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt của văn bản ( 1) và (2)? 2/ Xác định nghĩa sự việc và nghĩa tình thái trong câu thơ Của ong bướm này đây tuần tháng mật thuộc văn bản (1) 3/ Chỉ ra sự khác nhau quan niệm về thời gian qua từ xuân của 2 văn bản trên. 4/ Viết đoạn văn ngắn ( 5 dến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng một bộ phận giới trẻ có lối sống gấp, sống ích kỉ trong cuộc sống hôm nay.

0
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi phía dưới:“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;Này đây hoa của đồng nội xanh rì;Này đây lá của cành tơ phơ phất;Của yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng mi,Mỗi buổi  sớm, thần Vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoaì...
Đọc tiếp

Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi phía dưới:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;Này đây hoa của đồng nội xanh rì;Này đây lá của cành tơ phơ phất;Của yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng mi,Mỗi buổi  sớm, thần Vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoaì xuân.”

                 (Trích Vội vàng – Xuân Diệu)

1.        Đoạn trích chủ yếu sử dụng phương thức biểu đạt nào?

2.        Nội dung của đoạn trích?

3.        Chỉ ra một biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn trích? Nêu tác dụng của bpnt đó?

4.        Chỉ ra các thành phần nghĩa của câu thơ sau: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

2

1. Phương thức biểu đạt chủ yếu : Biểu cảm

2. Nội dung : Vẻ đẹp của mùa xuân.

3. Nghệ thuật : so sánh "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"

=> Tác dụng : Cho thấy được tháng giêng là những ngày đẹp.

4. CN : Tháng giêng.

VN : ngon như một cặp môi gần

28 tháng 2 2021

1. 

PTBD: biểu cảm

2.

Đoạn trích thể hiện niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc, tha thiết với cuộc đời đến cuồng nhiệt

3. 

BPNT:

so sánh (Tháng giêng ngon như một cặp môi gần) 

=>Cách so sánh lấy vẻ đẹp con người làm chuẩn mực

điệp từ (này đây)

=>Miêu tả khu vườn xuân vui tươi, ấm áp, đầy hương sắc, đầy âm thanh

4.

Biện pháp so sánh làm cho người đọc thấy sự ngọt ngào, dịu dàng của mùa xuân

 

 

17 tháng 3 2022

*TK*

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, hồn thơ Xuân Diệu luôn tha thiết gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống và con người.
"Vội vàng" là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8, thể hiện một lòng ham muốn cuồng nhiệt nhưng luôn bị ám ảnh bởi quy luật thời gian và sự hữu hạn của kiếp người.
Đoạn thơ sau đây có lẽ là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ "Vội vàng":
"Của ong bướm...
........ mới hoài xuân"
Đoạn thơ tập trung thể hiện cái nhìn trẻ trung, tươi mới của Xuân Diệu đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Qua đó thể hiện một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của chính nhà thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Cả đoạn thơ như chất đầy vẻ đẹp của cuộc sống mà mỗi câu thơ là một phát hiện mới mẻ, tinh tế của Xuân Diệu đó là kết tinh của cái đẹp: mật "của ong bướm", "hoa của đồng nội","khúc nhạc tình" của chim yến, chim anh, "mùa xuân của đất trời" và có cả "cặp môi" của người thiếu nữ. Một mùa xuân với vẻ đẹp của tháng giêng tràn đầy sức sống: "ong bướm, hoa cỏ, chim muông, ánh sáng, âm thanh". Tất cả như vừa mới từ cuộc đời tràn vào trong thơ còn đang tươi nguyên sắc màu, còn ấm nóng hơi thở của cuộc sống tác động vào mọi giác quan của người đọc như mời mọc, như quyến rũ. Đoạn thơ như một khúc nhạc liệt với nhịp điệu dồn dập, những câu thơ như cứ tuông thẳng ra từ dòng thác tâm hồn, từ máu thịt của một hồn thơ yêu cuộc sống đến mãnh liệt. Câu nọ cứ tràn sang câu kia, ý nọ tiếp ý kia như một đợt sóng liên tiếp không ngừng, không nghỉ. Những điệp ngữ "này đây" như có một bàn tay đang chỉ vào một sự vật cụ thể mà tính, mà đếm, mà kể cho hết những cái đẹp của cuộc đời. Nó vừa là tiếng reo vui háo hức, vừa là lời mời gọi tha thiết. Xuân Diệu như muốn đem tất cả cái đẹp của trần thế mà trao tặng, mà hiến dâng cho con người, kết cấu của từng câu thơ cũng thường xuyên thay đổi tác giả liên tiếp dùng phép đảo ngữ tạo nên nhịp điệu sôi nổi, háo hức cho cả đoạn thơ.
Đằng sau bức tranh tươi mới của cuộc sống ta bắt gặp một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ của chính nhà thơ. Xuân Diệu nhìn cuộc sống bằng cặp mắt "xanh non", bằng một con mắt trẻ trung đầy ham muốn, đầy khát vọng đó là con mắt thoát ra khỏi cái nhìn ước lệ để nhìn trực tiếp vào cuộc sống, để từ đó nhà thơ có thể phát hiện ra những cái tinh tế, sâu sắc của cuộc sống. Đối với Xuân Diệu cái đẹp nằm ngay trong cuộc sống trần thế. Cuộc sống xung quanh ta rất đẹp, rất quyến rũ và rất đáng sống, không cần phải thoát li thực tại cứ bám chặt lấy mảnh đất trần thế mà tận hưởng cho hết cái đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho con người đây là một quan niệm sống rất nhân văn.
Quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ cũng xuất phát từ tính nhân văn, chủ nghĩa nhân văn. Trong văn học trung đại, các nhà thơ coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp cho nên họ miêu tả cái đẹp của con người bằng cái đẹp của thiên nhiên. Còn các nhà thơ mới như Xuân Diệu coi con người là chuẩn mực của cái đẹp nên miêu tả cái đẹp của thiên nhiên bằng cái đẹp của con người, chính vì vậy mà Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh tuyệt mĩ:
"Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Nhà thơ có một cách so sánh táo bạo, mới mẻ:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Cái đẹp, cái hấp dẫn của tháng giêng, của mùa xuân qua cách so sánh của Xuân Diệu càng trở nên cụ thể, thậm chí rất vật chất.
Hai câu cuối đoạn thơ:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Thể hiện ý tưởng đoạt lấy sự sống, đoạt lấy thời gian tranh thủ để tận hưởng hạnh phúc lớn nhất của con người giữa mùa xuân, tuổi trẻ & tình yêu.
Đoạn thơ đã huy động hàng loạt từ ngữ, hình ảnh đẹp giàu sức gợi tả, giọng thơ sôi nổi, vui tươi đầy sức lôi cuốn.
Đoạn thơ này nói riêng và cả bài thơ nói chung thể hiện rất rõ cái tôi của Xuân Diệu: một cặp mắt xanh non háo hức, một trái tim sôi nổi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, một quan điểm thẩm mĩ mới mẻ: lấy con người, tuổi trẻ & tình yêu làm chuẩn mực cho cái đẹp.

 
17 tháng 3 2022

ham khảo 

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, hồn thơ Xuân Diệu luôn tha thiết gắn bó với thiên nhiên, với cuộc sống và con người.
"Vội vàng" là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8, thể hiện một lòng ham muốn cuồng nhiệt nhưng luôn bị ám ảnh bởi quy luật thời gian và sự hữu hạn của kiếp người.
Đoạn thơ sau đây có lẽ là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ "Vội vàng":
"Của ong bướm...
........ mới hoài xuân"
Đoạn thơ tập trung thể hiện cái nhìn trẻ trung, tươi mới của Xuân Diệu đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người. Qua đó thể hiện một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của chính nhà thơ:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Cả đoạn thơ như chất đầy vẻ đẹp của cuộc sống mà mỗi câu thơ là một phát hiện mới mẻ, tinh tế của Xuân Diệu đó là kết tinh của cái đẹp: mật "của ong bướm", "hoa của đồng nội","khúc nhạc tình" của chim yến, chim anh, "mùa xuân của đất trời" và có cả "cặp môi" của người thiếu nữ. Một mùa xuân với vẻ đẹp của tháng giêng tràn đầy sức sống: "ong bướm, hoa cỏ, chim muông, ánh sáng, âm thanh". Tất cả như vừa mới từ cuộc đời tràn vào trong thơ còn đang tươi nguyên sắc màu, còn ấm nóng hơi thở của cuộc sống tác động vào mọi giác quan của người đọc như mời mọc, như quyến rũ. Đoạn thơ như một khúc nhạc liệt với nhịp điệu dồn dập, những câu thơ như cứ tuông thẳng ra từ dòng thác tâm hồn, từ máu thịt của một hồn thơ yêu cuộc sống đến mãnh liệt. Câu nọ cứ tràn sang câu kia, ý nọ tiếp ý kia như một đợt sóng liên tiếp không ngừng, không nghỉ. Những điệp ngữ "này đây" như có một bàn tay đang chỉ vào một sự vật cụ thể mà tính, mà đếm, mà kể cho hết những cái đẹp của cuộc đời. Nó vừa là tiếng reo vui háo hức, vừa là lời mời gọi tha thiết. Xuân Diệu như muốn đem tất cả cái đẹp của trần thế mà trao tặng, mà hiến dâng cho con người, kết cấu của từng câu thơ cũng thường xuyên thay đổi tác giả liên tiếp dùng phép đảo ngữ tạo nên nhịp điệu sôi nổi, háo hức cho cả đoạn thơ.
Đằng sau bức tranh tươi mới của cuộc sống ta bắt gặp một cách nhìn đời, quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ của chính nhà thơ. Xuân Diệu nhìn cuộc sống bằng cặp mắt "xanh non", bằng một con mắt trẻ trung đầy ham muốn, đầy khát vọng đó là con mắt thoát ra khỏi cái nhìn ước lệ để nhìn trực tiếp vào cuộc sống, để từ đó nhà thơ có thể phát hiện ra những cái tinh tế, sâu sắc của cuộc sống. Đối với Xuân Diệu cái đẹp nằm ngay trong cuộc sống trần thế. Cuộc sống xung quanh ta rất đẹp, rất quyến rũ và rất đáng sống, không cần phải thoát li thực tại cứ bám chặt lấy mảnh đất trần thế mà tận hưởng cho hết cái đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho con người đây là một quan niệm sống rất nhân văn.
Quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ cũng xuất phát từ tính nhân văn, chủ nghĩa nhân văn. Trong văn học trung đại, các nhà thơ coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp cho nên họ miêu tả cái đẹp của con người bằng cái đẹp của thiên nhiên. Còn các nhà thơ mới như Xuân Diệu coi con người là chuẩn mực của cái đẹp nên miêu tả cái đẹp của thiên nhiên bằng cái đẹp của con người, chính vì vậy mà Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh tuyệt mĩ:
"Và này đây ánh sáng chớp hàng mi"
Nhà thơ có một cách so sánh táo bạo, mới mẻ:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Cái đẹp, cái hấp dẫn của tháng giêng, của mùa xuân qua cách so sánh của Xuân Diệu càng trở nên cụ thể, thậm chí rất vật chất.
Hai câu cuối đoạn thơ:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"
Thể hiện ý tưởng đoạt lấy sự sống, đoạt lấy thời gian tranh thủ để tận hưởng hạnh phúc lớn nhất của con người giữa mùa xuân, tuổi trẻ & tình yêu.
Đoạn thơ đã huy động hàng loạt từ ngữ, hình ảnh đẹp giàu sức gợi tả, giọng thơ sôi nổi, vui tươi đầy sức lôi cuốn.
Đoạn thơ này nói riêng và cả bài thơ nói chung thể hiện rất rõ cái tôi của Xuân Diệu: một cặp mắt xanh non háo hức, một trái tim sôi nổi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, một quan điểm thẩm mĩ mới mẻ: lấy con người, tuổi trẻ & tình yêu làm chuẩn mực cho cái đẹp.

28 tháng 2 2021

Bạn tham khảo nhé !!

 

Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu có lẽ là một trong những nhà thơ độc đáo nhất với phong cách và cá tính riêng của mình. Giữa những tù túng, chật hẹp, ngang trái, bất công của xã hội đương thời, không ít nhà thơ muốn đến nơi tiên cảnh để thoát li thực tại. Như Chế Lan Viên từng viết:

" Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giáMột vì sao trơ trọi cuối trời xaĐể nơi đó tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền đau khổ tháng ngày qua"

Với Xuân Diệu thì khác, trái tim yêu đời của người thi sĩ ấy luôn biết ơn thực tại, ông tìm thấy những chân giá trị và niềm vui trong cuộc sống chốn trần gian. Bài thơ Vội vàng đã chứng minh cho điều ấy nơi ông. Đặc biệt, khúc ca về niềm yêu cuộc sống được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật....Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Trước hết, có thể cảm nhận được tình yêu cuộc sống qua cách mà ông cảm nhận về vị thiên nhiên khi nàng xuân bước đến trần gian. Tạo hoá dâng hiến cho đời những thức vị đầy mê đắm, ngọt ngào. Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng, nuôi dưỡng mật ngọt khi vào độ "tuần tháng mật". Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng. Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn mọc lên những bông hoa dại ngát hương, rực rỡ điểm tô cho cánh đồng thêm dư vị yêu thương. Những cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ. Cảnh sắc tuyệt diệu, nên thơ, vườn hồng của cây lá mùa xuân còn được góp vui bằng những khúc nhạc tình mê đắm. Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian, cỏ cây chìm đắm trong lời cả ngọt ngào, dịu êm ấy. Cụm từ "này đây" được lặp đi lặp lại kết hợp với phép liệt kê càng thể hiện được sự căng đầy nhựa sống của thiên nhiên, trần gian đang sở hữu cho mình một cung đường mê hoặc khiến bao kẻ khi lỡ bước vào phải mê đắm, ngẩn ngơ.

"Và này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa"

Xuân xanh sẽ không đủ đầy, ấm áp nếu thiếu đi hình ảnh con người bởi con người vốn là chủ thể của thiên nhiên, của cuộc sống. Cảnh sắc đẹp mang đến cho tâm hồn con người niềm thương, sự thư thái và khát khao tận hưởng. Xuân về, mỗi buổi sớm mai chớp hàng mi, ánh sáng tươi mới lại đến, dịu dàng, ấm áp vô cùng. Nắng xuân ngời ngời, nắng xuân mang cả bao hy vọng, mang thần Niềm Vui đến gõ cửa từng nhà, hôn lên từng chồi non của cây trái, hương hoa. Mỗi ngày được thức dậy, tận hưởng vạn vật dào dạt sức xuân là mỗi ngày đáng để sống, đáng để vui, đáng để yêu và được yêu. Bức tranh xuân thật đẹp biết bao, tròn đầy và tình tứ quá. Có lẽ, phải có tâm hồn nhạy cảm và yêu thiên nhiên tha thiết như Xuân Diệu mới viết nên được những vần thơ đẹp đến nao lòng như vậy.

"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Từ cảnh sắc đất trời được cảm nhận bằng thị giác, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để ví vẻ đẹp của tháng giêng xuân về. "Cặp môi gần" - hấp dẫn quá, mê đắm quá, tháng giêng với người thi sĩ lúc này đây như hai kẻ đang yêu nhau. Tháng giêng rạo rực, hấp dẫn, mê đắm như bờ môi của người tình nhân vậy. Cách nghĩ suy đầy mới mẻ, từ duy mở của ông hoàng thơ tình Việt Nam mới có lối so sánh, ví von độc đáo đến vậy.

Việc đặt dấu chấm giữa câu: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" đã thể hiện được hai trạng thái đối lập trong cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên tuyệt vời đến như thế làm sao mà tôi không "sung sướng" cho được. Nhưng càng sung sướng thì lại càng sợ xuân rồi sẽ đi, cảnh sắc rồi cũng úa tàn, tuổi xuân rồi cũng dần phai. Vì thế mà nhà thơ phải "vội vàng một nửa".

"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Yêu cuộc sống da diết, yêu thiên nhiên vô bờ, trái tim rung động mê say trước cảnh xuân, tình xuân. Dù đang đắm chìm trong thiên đường tháng giêng ấy nhà thơ vẫn phải tự thúc giục bản thân phải sống vội, sống nhanh lên để tận hưởng hết hương sắc cuộc đời. Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.

Câu thơ cũng như một lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả tới người đọc về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ, tận hưởng và cống hiến cho cuộc đời, hãy sống một tuổi trẻ thật đẹp để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.

Đoạn thơ tuy không quá dài nhưng đủ để ta cảm nhận từng đợt sóng lòng mãnh liệt về niềm yêu cuộc sống của thi nhân. Có yêu cuộc đời mới yêu thiên nhiên đến thế, có yêu cuộc đời mới sợ rằng đời sẽ vụt trôi, có yêu cuộc đời mới thấy được mình phải sống có trách nhiệm trong từng giây phút như vậy. Đọc đoạn thơ mà em thấy lòng mình lắng lại, đủ vui, đủ để thấy bản thân mình phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật ý nghĩa và trọn vẹn nhất.

Anh/chị tham khảo :

Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu có lẽ là một trong những nhà thơ độc đáo nhất với phong cách và cá tính riêng của mình. Giữa những tù túng, chật hẹp, ngang trái, bất công của xã hội đương thời, không ít nhà thơ muốn đến nơi tiên cảnh để thoát li thực tại. Như Chế Lan Viên từng viết:

" Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giáMột vì sao trơ trọi cuối trời xaĐể nơi đó tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền đau khổ tháng ngày qua"

Với Xuân Diệu thì khác, trái tim yêu đời của người thi sĩ ấy luôn biết ơn thực tại, ông tìm thấy những chân giá trị và niềm vui trong cuộc sống chốn trần gian. Bài thơ Vội vàng đã chứng minh cho điều ấy nơi ông. Đặc biệt, khúc ca về niềm yêu cuộc sống được thể hiện rõ nhất qua đoạn thơ:

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật....Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Trước hết, có thể cảm nhận được tình yêu cuộc sống qua cách mà ông cảm nhận về vị thiên nhiên khi nàng xuân bước đến trần gian. Tạo hoá dâng hiến cho đời những thức vị đầy mê đắm, ngọt ngào. Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng, nuôi dưỡng mật ngọt khi vào độ "tuần tháng mật". Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng. Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn mọc lên những bông hoa dại ngát hương, rực rỡ điểm tô cho cánh đồng thêm dư vị yêu thương. Những cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ. Cảnh sắc tuyệt diệu, nên thơ, vườn hồng của cây lá mùa xuân còn được góp vui bằng những khúc nhạc tình mê đắm. Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian, cỏ cây chìm đắm trong lời cả ngọt ngào, dịu êm ấy. Cụm từ "này đây" được lặp đi lặp lại kết hợp với phép liệt kê càng thể hiện được sự căng đầy nhựa sống của thiên nhiên, trần gian đang sở hữu cho mình một cung đường mê hoặc khiến bao kẻ khi lỡ bước vào phải mê đắm, ngẩn ngơ.

"Và này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa"

Xuân xanh sẽ không đủ đầy, ấm áp nếu thiếu đi hình ảnh con người bởi con người vốn là chủ thể của thiên nhiên, của cuộc sống. Cảnh sắc đẹp mang đến cho tâm hồn con người niềm thương, sự thư thái và khát khao tận hưởng. Xuân về, mỗi buổi sớm mai chớp hàng mi, ánh sáng tươi mới lại đến, dịu dàng, ấm áp vô cùng. Nắng xuân ngời ngời, nắng xuân mang cả bao hy vọng, mang thần Niềm Vui đến gõ cửa từng nhà, hôn lên từng chồi non của cây trái, hương hoa. Mỗi ngày được thức dậy, tận hưởng vạn vật dào dạt sức xuân là mỗi ngày đáng để sống, đáng để vui, đáng để yêu và được yêu. Bức tranh xuân thật đẹp biết bao, tròn đầy và tình tứ quá. Có lẽ, phải có tâm hồn nhạy cảm và yêu thiên nhiên tha thiết như Xuân Diệu mới viết nên được những vần thơ đẹp đến nao lòng như vậy.

"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Từ cảnh sắc đất trời được cảm nhận bằng thị giác, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để ví vẻ đẹp của tháng giêng xuân về. "Cặp môi gần" - hấp dẫn quá, mê đắm quá, tháng giêng với người thi sĩ lúc này đây như hai kẻ đang yêu nhau. Tháng giêng rạo rực, hấp dẫn, mê đắm như bờ môi của người tình nhân vậy. Cách nghĩ suy đầy mới mẻ, từ duy mở của ông hoàng thơ tình Việt Nam mới có lối so sánh, ví von độc đáo đến vậy.

Việc đặt dấu chấm giữa câu: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" đã thể hiện được hai trạng thái đối lập trong cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên tuyệt vời đến như thế làm sao mà tôi không "sung sướng" cho được. Nhưng càng sung sướng thì lại càng sợ xuân rồi sẽ đi, cảnh sắc rồi cũng úa tàn, tuổi xuân rồi cũng dần phai. Vì thế mà nhà thơ phải "vội vàng một nửa".

"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"

Yêu cuộc sống da diết, yêu thiên nhiên vô bờ, trái tim rung động mê say trước cảnh xuân, tình xuân. Dù đang đắm chìm trong thiên đường tháng giêng ấy nhà thơ vẫn phải tự thúc giục bản thân phải sống vội, sống nhanh lên để tận hưởng hết hương sắc cuộc đời. Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.

Câu thơ cũng như một lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả tới người đọc về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ, tận hưởng và cống hiến cho cuộc đời, hãy sống một tuổi trẻ thật đẹp để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.

Đoạn thơ tuy không quá dài nhưng đủ để ta cảm nhận từng đợt sóng lòng mãnh liệt về niềm yêu cuộc sống của thi nhân. Có yêu cuộc đời mới yêu thiên nhiên đến thế, có yêu cuộc đời mới sợ rằng đời sẽ vụt trôi, có yêu cuộc đời mới thấy được mình phải sống có trách nhiệm trong từng giây phút như vậy. Đọc đoạn thơ mà em thấy lòng mình lắng lại, đủ vui, đủ để thấy bản thân mình phải cố gắng nhiều hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật ý nghĩa và trọn vẹn nhất.

7 tháng 4 2020

1/

a. Ý nghĩa câu mở đầu
- Hình thức: câu hỏi tu từ mang nhiều ý nghĩa.
- Chủ thể trữ tình tự phân thân
+ Chữ “anh” nếu hiểu ở ngôi thứ 2 lời của người phương xa (cô gái/ người thôn Vĩ) vừa hỏi, vừa trách cứ, vừa mời mọc đầy duyên dáng nhân vật trữ tình về với thôn Vĩ.
+ Chữ “anh” nếu hiểu ở ngôi thứ 1: nhà thơ tự trách mình đồng thời bộc lộ khao khát được trở về với cảnh cũ, người xưa.
Dù hiểu theo cách nào thì lời chào mời nửa phiền trách ấy cũng là cánh cửa, mở đường cho dòng hồi tưởng của tác giả về với xứ Huế mộng mơ.
b. Điệp từ “Nắng”:
- Như một tiếng ngân khiến không gian tràn đầy ánh sáng. Nắng ở đây là nắng mới, thứ nắng ban mai, tinh khiết đầu tiên trong ngày trên những thân cau còn ướt đẫm sương đêm.
- Điệp từ nắng cùng cụm hình ảnh tiểu đối: nắng hàng cau - nắng mới lên khiến ta cảm giác ánh sáng như đang đầy dần trong khu vườn thôn Vĩ không gian động
c. Cảm nhận tình cảm của nhà thơ với đất và người thôn Vĩ
- 4 câu thơ đã đặc tả vẻ đẹp của phong cảnh và con người xứ Huế sinh động tràn đầy sức sống, cảnh thì đẹp dáng, đẹp màu, người thì đẹp lòng, đẹp nết.
- Lời thơ tha thiết chứa đựng cả 1 tình yêu, 1 niềm khao khát. Có lẽ nhà thơ hiểu rất rõ hoàn cảnh thực tại đầy đau đớn của mình, hiểu rằng cảnh và người thôn Vĩ mãi mãi chỉ là trong mộng mà thôi.
- Tuy nhiên, buồn mà không tuyệt vọng, đau khổ mà vẫn ước mơ, hồn thơ dạt dào sức sống ấy chỉ hồi tưởng 1 cuộc gặp gỡ trong tâm linh mà niềm vui như thấm vào đường nét của cảnh vật, nghe như có tiếng thì thầm reo vui của cuộc hội ngộ đích thực trong hiện tại.

2/ Làm văn:

Đề 1:

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới 1932-1945 với những tác phẩm tiêu biểu. Các nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên, gắm nhìn cảnh đẹp quê hương đất nước dù ông đang phải trải qua những đau đớn cảu bệnh tật với mong muốn được gắn bó lâu hơn với cuộc sống này. Đó là một tinh thần đáng ngợi ca và tâm trạng ấy đã được khắc họa rõ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Khổ 1 là bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp cùng tâm trạng tiếc nuối của tác giả.

Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu hỏi đó là của ai mà lại vừa hỏi vừa trách móc vừa nhớ mong nhất định không phải của Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy có thể là của ai? Có thể là của Hàn Mặc Tử tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi đó như xác nhận một sự thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn Vĩ một lần nữa. Đó là cái cớ rất giàu chất thơ vừa nhẹ bẫng xót xa để gọi về những kỉ niệm thôn Vĩ. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niêm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đực trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm.Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày. Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. Những cây cau mảnh dẻ vút cao vươn mình đón lấy tia nắng ban mai trong lành ấm áp. Khung cảnh quen thuộc ấy ta có thể bắt gặp ở bất cứ góc sân khoảng trời nào từ miền quê đất Việt thân yêu. Phép luyến láy: nắng hàng cau nắng mới lên làm cho cái nắng như lan tỏa hơn bừng sáng hơn. Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.

Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc xang diệu kì: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Còn gì trong sáng và cao quý hơn ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Phải chăng sương đêm đã gột rửa hết những bụi bặm để khoác lên cây lá tấm áo choàng trong suốt lấp lánh khi nắng lên. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn. Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bọ đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ.Với Hàn Mặc Tử lúc này, đó là thế giới ở ngoài kia, của sự sống ngoài kia chứ không phải thế giới của bệnh tật. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ kết đoạn là nét cách điệu hóa rất tài tình của Hàn Mặc Tử nhằm ghi lấy hồn Vĩ Dạ. Có lẽ hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người. Nhưng cũng có một điều đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử là vừa có ảnh hưởng thơ ca dân gian vừa có sản phẩm của lối thơ sáng tạo hay vẽ khuôn mặt sau hàng liễu được viết lên bởi mặc cảm chia lìa của con người luôn tự nhận mình đứng ngoài cuộc vui.

Cảm nhận khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh cảnh và người xứ Huế vừa trần thế vừa trong sáng, tinh khôi trong tâm trí Hàn Mặc Tử. Qua đó có thể thấy ở Hàn Mặc Tử một tình yêu quê, yêu người tha thiết, và cũng vời vợi nỗi nhớ mong của thi sĩ hướng về cảnh và người thôn Vĩ.

Đọc bài thơ mà khơi gợi trong lòng người tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu con người cảnh vật nơi đây. Từ đó mà dạy chúng ta cách giữ gìn và bảo vệ những thứ xung quanh mình.

Đề 2:

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là bài mang một tình yêu, khát khao cuộc sống như vậy. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ mang đến một hoài niệm và tâm trạng lo âu của thi sĩ.

Mở đầu bài thơ, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ. Ta thấy thi sĩ tuy phải sống cuộc đời đầy bi kịch nhưng vẫn khát khao được sống và yêu đời tha thiết.

Khổ thơ thứ hai được mở ra, khiến người đọc cảm nhận được hoài niệm về cảnh sông nước đêm trăng, hòa theo đó là tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ. Cảnh sông nước đêm trăng được gợi ra:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Dòng sông có nhiều cách hiểu, nhưng dù hiểu theo cách nào thì vẫn gợi ý thức về sông Hương-linh hồn của Huế. Cảnh vật được miêu tả rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi đặc điểm riêng của Huế: gió khẽ lay, mây khẽ bay, hoa bắp khẽ đung đưa, chuyển động rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi không gian rất thanh bình, rất Huế. Cảnh vật đượm buồn: buồn thiu, buồn sâu lắng, buồn nhuốm vào không gian, cảnh vật, thường là nỗi buồn từ thế giới bên ngoài tác động. Câu thơ như dài ra, căng ra, khiến nỗi buồn như dằng dặc. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật “nhân hóa”, dòng sông đã trở thành một sinh thể, có tâm trạng, có hồn, mang nỗi niềm của con người. Cảnh vật như nhuốm màu chia ly “Gió theo lối gió mây đường mây”. Câu thơ tách nhịp 4/3 chia làm hai nửa: một gió một mây. Từ “gió” được điệp lại ở vế một, đóng khung một thế giới đầy gió, chỉ có gió, chỉ riêng gió. Từ “mây” điệp ở vế hai, tạo nên một thế giới mây khép kín chỉ có mây. Vậy là hai sự vật vốn dĩ chỉ đi liền với nhau thì nay tác biệt và chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây khép kín trong mây. Câu thơ mang đến một hiện thực phi lý về hiện thực khách quan, nhưng rất có lý về hiện thực tâm trạng. Thi sĩ đang sống trong cảnh chia ly, cách biệt, sống trong cảnh đời đầy nghịch lý cho nên gió cứ gió, mây cứ mây. Từ “lay” mang một nỗi buồn trong ca dao, chỉ hoạt động rất nhẹ của sự vật hiện tượng khi có gió nhẹ. Nó mang nỗi buồn truyền thống của ca dao, thổi vào nỗi buồn muôn thủa của con người.

Hai câu thơ sau, ta nhận ra được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Cảnh vật được gợi ra một cách lung linh, huyền ảo, tràn ngập ánh trăng, mang ý nghĩa vừa thực vừa ảo. “Sông trăng” có thể hiểu là dòng sông tràn ngập ánh trăng, cũng có thể là trăng tuôn chảy thành dòng. “Thuyền trăng” là con thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng giống như hình ảnh một con thuyền. Dù hiểu theo cách nào thì trăng đã tràn ngập cả không gian, vừa thực vừa ảo, tạo nên một cảm giác mơ hồ. Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng, để có một thế giới tri âm, chất chứa tâm sự, giải tỏa những niềm đau, trăng đối với Hàn Mặc Tử là một người bạn tri âm. “Thuyền ai” lại gợi ra một danh từ phiếm chỉ. Hai câu thơ chứa đựng cả những hình ảnh mâu thuẫn. Câu dưới không có trăng, ý thơ phi lý về hiện thực nhưng chúng ta có thể lí giải được khi dựa vào tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trăng lúc có lúc không, mong manh và mờ ảo, người tri kỉ cũng mờ ảo và mong manh nên lo âu, phấp phỏng là thế. Chờ trăng là chờ sự tri âm, chờ sự đồng điệu, chờ sự sẻ chia và chờ được khát khao, giao cảm với đời, là một con người bình thường mong muốn sự giao cảm. Từ “kịp” thể hiện một tâm trang lo âu của nhà thơ, tâm trạng đợi chờ, khao khát. Qua đó thể hiện được quỹ thời gian sống đang bị vơi cạn đi từng ngày, cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường nếu không trở về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn.

Những cảm nhận khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ cho ta thấy được hoài niệm của tác giả về cảnh sông nước đêm trăng, đồng thời cũng hiểu được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của nhà thơ. Tác giả cũng đang chờ đợi sự tri âm, sự chia sẻ để dịu bớt nỗi đau trên hành trình trở về thế giới bên kia. Đó hay chăng chính là sự xót xa trên bi kịch cuộc đời của một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh.

Đề 3:

Hàn Mặc Tử một trong ba nhà thơ đỉnh cao của phong trào thơ mới, là nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Các tác phẩm của ông đều được sáng tác với một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại trong đau đớn, luôn có sự giằng xé giữa tâm hồn và thể xác. Đặc biệt bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ đầy tâm trạng của ông giằng cho người mình yêu. Khổ thơ cuối bài là dòng tâm trạng mơ hồ, kì ảo.

    Từ giọng khắc khoải da diết ở khổ 2 thì sang khổ 3 đã chuyển thành giọng gấp gáp, khấn khoản, niềm khao khát được gắn liền với hình bóng cụ thể:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra.”

    Hình bóng cụ thể lúc đầu là khách đường xa, lúc sau là em với tà áo trắng tinh khôi. Hình tượng giai nhân từ khách đường xa mà dần dần thành em với giấc mộng dài say đắm. Khách đã xa vời mà giờ đây khách đường xa lại càng xa xôi diệu vời mà gắn với nó là “mơ” lại càng hư ảo. Có phải những hình bóng ấy dù đẹp nhưng nó vẫn thuộc về thế giới ngoài kia của quá khứ và với thi sĩ nó chỉ hiện hữu bằng một giấc mơ dài. Hàn Mặc Tử với mong muốn gặp được khách, gặp được giai nhân nhưng mong muốn ấy của ông sẽ không trở thành hiện thực bởi chỉ trong mơ ông mới dám mơ ước về điều ấy.

    Ở câu thơ thứ hai thì “áo em trắng quá”. Từ “quá” chung sắc thái biểu cảm tiếng kêu phát hiện trầm trồ ngỡ ngàng về vẻ đẹp giai nhân hiện hữu. Sắc trắng hiện ra không ít hai lần: trong văn học trung đại thì đó là cái trắng tang tóc, cái màu trắng đau thương, buồn dường như nói về sự ra đi, chia tay. Còn trong văn học hiện đại thì đó là một sắc trắng mới, tràn đầy màu sắc và tươi trẻ hơn. Đó là cái trắng tinh khôi, tinh khiết. Quả thực Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm mới mẻ, một quan niệm thẩm mĩ cách tân, hiện đại.

    Đó là sắc màu tinh khiết thánh thiện. Nó gắn với một kí ức xa xôi về người con gái gắn với sắc màu tinh khiết “nhìn không ra” cực tả sắc áo vừa gợi vẻ đẹp xa vời khó nắm bắt như thực mà lại như mơ nghĩa là có một nét vè đẹp mà nhà thơ mãi tôn thờ đang tuột dần khỏi tầm tay. Đúng lúc hình bóng giai nhân hiện về rõ nét nhất trong tâm tưởng, lung linh nhất thì lại tuyệt vọng nhất. Nhà thơ mượn giấc mơ nhưng lại nói về cái thực đang diễn ra trong tâm hồn con người.

    Nhưng đến hai câu thơ cuối:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.”

    Chủ thể trữ tình trở về với thế giới thực của mình từ thế giới ngoài kia đầy xót xa với thực tại đau thương, đầy chia lìa với sự ám ảnh của cái chết:

“Tôi đang còn đây hay ở đâu

Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu.”

28 tháng 2 2021

Bạn tham khảo nhé !!

 

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về Xuân Diệu- Dẫn dắt vào đoạn thơ

2. Thân bài

a. Tình yêu thiên nhiên của tạo hoá:- Ong bướm đắm chìm trong những bông hoa bung nở dưới làn mưa xuân dịu dàng- Hương thiên nhiên làm cho ong bướm say mê, ríu rít gọi nhau thưởng thức, tận hưởng.- Đồng nội cỏ xanh rì, mơn mởn- Cành non tơ đằm thắm cũng đang "phất phơ", đung đưa mình trong gió xuân nhè nhẹ.- Yến anh thi nhau buông lời hát xôn xao, si mê cả một khoảng không gian- Lòng tác giả cũng rạo rực, say mê trước nàng xuân yêu kiều- Thần Vui gõ cửa mỗi sớm mai- So sánh độc đáo: Tháng giêng - cặp môi gần=> Cung đường tươi đẹp của mùa xuân → Trái tim yêu thiên nhiên tha thiết mới có cảm nhận tinh tế đến như vậy.

b. Yêu cuộc sống nên phải sống vội vàng kẻo bỏ lỡ thời gian:- Càng yêu cuộc sống càng sợ thời gian vụt trôi- Mỗi phút giây đều sung sướng tận hưởng nhưng lòng không quên thúc giục phải vội vã- Phải vội vàng lên để mai này khi hạ đến, xuân tàn cũng không có gì phải tiếc nuối, hoang hoải "hoài xuân" nữa.- Lời nhắn nhủ giàu ý vị của tác giả về lẽ sống: hãy sống hết mình với tuổi trẻ để khi thanh xuân qua không có gì phải ngậm ngùi hối tiếc.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ

 
27 tháng 2 2020

a. Bốn câu đầu

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.”

- Điệp ngữ “Tôi muốn” nhấn mạnh cái tôi khát khao, ước muốn. Đây là cái tôi đặc trưng của văn học lãng mạn 30-45

- Động từ “tắt”, “buộc” mang sắc thái tiêu cực khiến ước muốn của thi nhân có vẻ như phũ phàng. Nhưng nắng và gió là hiện tượng thiên nhiên, không thể điều khiển được nên ta thấy ước muốn không chỉ phũ phàng mà còn phi lí. Cái tôi chủ quan muốn khống chế, chi phối những hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng.

- Ở câu 2 và 4 xuất hiện từ ‘cho” và “đừng” được điệp lại, có sắc thái như van nài, khẩn khoản. Nhà thơ sợ rằng nắng làm màu nhạt mất, gió làm hương đời bay xa. Hỏ ra, đằng sau ước muốn có vẻ phũ phàng, vô lí kia là tấm lòng của một thi nhân yêu say đắm cuộc sống, yêu vô cùng những màu sắc, hương thơm của cuộc đời; và muốn nâng niu, trân trọng, gìn giữ nó trong vòng tay.

=> Ước muốn thiết tha của niềm yêu. (Thiết tha đến độ nghe có vẻ phi lí)

b. 7 câu tiếp: Bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống nơi trần thế

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đòng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”

* Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế:

- Điệp ngữ “của” -> tạo sự liền mạch trong hình tượng thơ với bốn câu thơ trên.

- Điệp ngữ “này đây”

-> cảm giác hân hoan, vui sướng vô ngần của thi nhân.

-> sự giàu có, phong phú đến mức say đắm của cuộc đời.

=> cả xúc cảm chủ quan và cả cảnh vật cuộc đời khách quan được khắc họa.

- “này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời ở ngay trước mắt, ngay trong lúc này. -> cuộc sống tươi đẹp hiện hữu ở cả thời gian và không gian.

- Căng mở các giác quan, cảm nhận được vẻ đẹp toàn vị, cả hương vị và thanh sắc của cuộc đời: có vị ngọt; hương thơm, màu sắc; dáng hình uyển chuyển; âm thanh tình tứ; ánh sáng…

-> Mỗi ngày như một bữa tiệc thịnh soạn được bày ra, mời gọi, mang niềm vui đến cho mọi nhà.

=> Quan điểm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu: Cuộc sống xung quanh chúng ta đẹp vô cùng. Xuân Diệu tìm vẻ đẹp của cuộc đời không ở đâu xa mà ở ngay cõi trần gian, ngay bên cạnh mình.

* Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân tình yêu: (tất cả được nhìn qua lăng kính của tình yêu)

- Khu vườn xuân đã biến thành khu vườn yêu, khu vườn hạnh phúc. Trong khu vườn ấy có:

+ Cặp đôi “ong” – “bướm” trong “tuần tháng mật” yêu đương hạnh phúc. “tuần tháng mật” mang nghĩa đen là mật ngọt của thiên nhiên hoa trái. Nó gợi đến “tuần trăng mật” của đời người. Hình như với Xuân Diệu, thời gian của đời người lúc nào cũng là tuần trăng mật, lúc nào cũng ngọt ngào, lúc nào cũng đầy mê đắm.

+ “Hoa” của “đồng nội xanh rì” -> trên đồng ruộng xanh mênh mông là hoa sặc sỡ, rực rỡ.

+ “Lá” của “cành tơ” -> điệp phụ âm “ph” trong từ láy “phơ phất”, điệp âm “ơ” trong cụm từ “tơ phơ”, nhiều thanh bằng trong cụm “cành tơ phơ phất” gợi hình ảnh những lá mềm mại, non tơ, phơ phất đung đưa trong gió. Có một cái gì đó vừa đẹp vừa mong manh. Cái đẹp khiến người ta mê đắm, cái mong manh khiến người ta trân trọng, nâng niu, giữ gìn.

+ “Yến anh” với “khúc tình si”: tiếng hót của chim chóc được XD khái quát trong hình tượng “yến anh” – là chim yến và chim oanh – coi là biểu tượng của lứa đôi, hạnh phúc. Tiếng hót được cảm nhận là “khúc tình si” say đắm.

+ “ánh sáng chớp hàng mi – thần Vui thường gõ cửa”: Xuân Diệu quan niệm con người là chuẩn mực của cái đẹp. Ánh sáng là ánh sáng buổi sớm. Ánh dương buổi sớm ấy hình như không phải tỏa ra từ thiên nhiên mà tỏa ra từ sau cái chớp mắt của thiếu nữ. Sau cái chớp mắt ấy, ánh sáng tỏa ra muôn nơi, chan chứa khắp thế gian. Vì thế, nhà thơ đón mỗi buổi sáng như đón thần Vui gõ cửa. cái thúc giục bên ngoài và tâm trạng bồn chồn bên trong chính là xúc cảm của niềm yêu. Niềm yêu của một nhà thơ không muốn bỏ lỡ dù chỉ là một khoảnh khắc của ngày mới.

=> Từ thi nhân trước khu vườn mùa xuân trần thế đã biến thành người tình nhân say đắm trong khu vườn mùa xuân tình yêu.

- Khái quát lại “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

+ Nhịp ngắt 3/5, trọng tâm của câu thơ rơi vào chữ “ngon”, tô đậm cảm giác tận hưởng bằng vị giác. Tháng giêng là tháng đầu tiên của mùa xuân, vì thế nó có thể coi là hoán dụ cho mùa xuân nhưng mùa xuân cũng lại gợi đến một ẩn dụ cho tuổi trẻ của đời người. Như vậy, tháng giêng ngon, mùa xuân tuyệt vời và tuổi trẻ cũng thật tuyệt vời.

+ Hình ảnh so sánh lạ (phép tương giao, cảm quan tương ứng học theo thơ phương Tây: cho rằng vạn vật trên thế giới đều liên quan đến nhau). Nếu “tháng giêng” là sự căng mọng, đẹp tươi nhất của mùa xuân thì “cặp môi gần” là sự căng mọng, đẹp tươi nhất của tuổi trẻ.

Với định ngữ “gần”, thấy cuộc đời không xa xôi mà ngay gần cạnh, không xa xôi mà ngay ở đây, ngay lúc này.

+ Biện pháp chuyển đổi cảm giác: “tháng giêng” là khái niệm vô hình, trừu tượng -> “ngon như cặp môi gần” : hữu hình cụ thể, có thể cảm nhận bằng vị giác => cảm nhận, hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân một cách rõ nét, trọn vẹn hơn.

+ Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ: Con người mới là chuẩn điểm của cái đẹp.