Ðể cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận<...">
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 5 2021

TP phụ chú : cô gái mở đường
khong bt có đúng khong :(

 Đọc kĩ đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:   Chuyện kể rằng : em, cô gái mở đường   Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương   Cho đoàn xe kịp giờ ra trận   Em đã lấy tình yêu tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa   Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy những luồng bom…   Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn   Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái   Một nấm mộ,...
Đọc tiếp

 Đọc kĩ đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi: 

 

 Chuyện kể rằng : em, cô gái mở đường  

 

Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương  

 

Cho đoàn xe kịp giờ ra trận  

 

Em đã lấy tình yêu tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa 

 

 Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy những luồng bom…  

 

Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn 

 

 Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái  

 

Một nấm mộ, nắng ngời bao sắc đá  

 

Tình yêu thương bồi đắp cao lên…  

 

(Trích Khoảng trời, hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ) 

 

 

 

 Câu 1: (0,5đ) Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt. 

 

 Câu 2: (1đ) Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên  

 

 Câu 3: (1đ) Từ đoạn thơ em có cảm nghĩ gì về con người về dân tộc Việt Nam? 

 

 Câu 4 (0.5 đ) Đoạn trích gợi em nghĩ tới những tác phẩm nào trong chương trình Ngữ văn lớp 9? 

 

Phần II. Tập làm văn (7,0 điểm) 

 

 Câu 1(2,0điểm) 

 

  Từ nội dung của đoạn thơ phần đọc hiểu hãy viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về lòng yêu nước? 

 

Câu 2 (5,0điểm) 

 

Hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe trong đoạn thơ sau: 

 

Không có kính không phải vì xe không có kính 

 

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi 

 

Ung dung buồng lái ta ngồi, 

 

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. 

 

 

 

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng 

 

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim 

 

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim 

 

Như sa, như ùa vào buồng lái 

 

Không có kính, ừ thì có bụi, 

 

Bụi phun tóc trắng như người già 

 

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc 

 

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. 

 

 

 

Không có kính, ừ thì ướt áo 

 

Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời 

 

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa 

 

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. 

 

 (Trích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật)

0
Đọc kĩ đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:   Chuyện kể rằng : em, cô gái mở đường   Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương   Cho đoàn xe kịp giờ ra trận   Em đã lấy tình yêu tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa   Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy những luồng bom…   Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn   Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái   Một nấm mộ,...
Đọc tiếp

Đọc kĩ đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi: 

 

 Chuyện kể rằng : em, cô gái mở đường  

 

Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương  

 

Cho đoàn xe kịp giờ ra trận  

 

Em đã lấy tình yêu tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa 

 

 Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy những luồng bom…  

 

Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn 

 

 Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái  

 

Một nấm mộ, nắng ngời bao sắc đá  

 

Tình yêu thương bồi đắp cao lên…  

 

(Trích Khoảng trời, hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ) 

 

 

 

 Câu 1: (0,5đ) Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt. 

 

 Câu 2: (1đ) Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên  

 

 Câu 3: (1đ) Từ đoạn thơ em có cảm nghĩ gì về con người về dân tộc Việt Nam? 

 

 Câu 4 (0.5 đ) Đoạn trích gợi em nghĩ tới những tác phẩm nào trong chương trình Ngữ văn lớp 9? 

 

Phần II. Tập làm văn (7,0 điểm) 

 

 Câu 1(2,0điểm) 

 

  Từ nội dung của đoạn thơ phần đọc hiểu hãy viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ về lòng yêu nước? 

 

Câu 2 (5,0điểm) 

 

Hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe trong đoạn thơ sau: 

 

Không có kính không phải vì xe không có kính 

 

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi 

 

Ung dung buồng lái ta ngồi, 

 

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. 

 

 

 

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng 

 

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim 

 

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim 

 

Như sa, như ùa vào buồng lái 

 

Không có kính, ừ thì có bụi, 

 

Bụi phun tóc trắng như người già 

 

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc 

 

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. 

 

 

 

Không có kính, ừ thì ướt áo 

 

Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời 

 

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa 

 

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. 

 

 (Trích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật)

1
26 tháng 10 2024

Tự sự

3 tháng 10 2019

1. Biện pháp nhân hóa: "con đường - khỏi bị thương". Con đường như một sinh thể sống.

2. Ngọn lửa mà các cô gái mở đường thắp lên thể hiện lòng yêu nước, kiên trung với lí tưởng cách mạng, tinh thần quả cảm, bất chấp gian khổ, hi sinh vì Tổ quốc.

3. Nhân vật Nho, Thao, Phương Định. Các nhân vật xuất hiện trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê

Ai giúp mình bài này với ạ!Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:Mỗi nghề có một lời ruDở hay thầy cũng chọn ru khúc nàyLời ru của gió màu mây Con sông của mẹ đường cày của cha Bắt đầu cái tuổi lên ba Thầy ru điệp khúc quê nhà cho em Yêu rồi cũng nhớ yêu thêm Tình yêu chẳng có bậc thềm cuối đâu! Thầy không ru đủ nghìn câu Biết con chữ cũng đứng sau cuộc đời Tuổi thơ em...
Đọc tiếp

Ai giúp mình bài này với ạ!

Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:

Mỗi nghề có một lời ru
Dở hay thầy cũng chọn ru khúc này

Lời ru của gió màu mây 
Con sông của mẹ đường cày của cha 
Bắt đầu cái tuổi lên ba 
Thầy ru điệp khúc quê nhà cho em 
Yêu rồi cũng nhớ yêu thêm 
Tình yêu chẳng có bậc thềm cuối đâu! 
Thầy không ru đủ nghìn câu 
Biết con chữ cũng đứng sau cuộc đời 
Tuổi thơ em có một thời 
Ước mơ thì rộng như trời, ngàn năm

Như ru ánh lửa trong hồn
Cái hoa trong lá, cái mầm trong cây 
Thầy ru hết cả mê say 
Mong cho trọn ước mơ đầy của em.

Mẹ ru em ngủ tròn đêm 
Thầy ru khi mặt trời lên mỗi ngày 
Trong em hạt chữ xếp dày 
Đừng quên mẹ vẫn lo gầy hạt cơm.    (Trích Lời ru của thầy, Đoàn Vị Thượng)

 Câu 1. Xảc định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên.

 Câu 2. Bằng “lời ru” của mình, người thầy trong bài thơ mong muốn gợi lên những đìều gì trong tâm hồn học trò?

 Câu 3. Chi ra và nêu hiệu quả của biện phảp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ: “Tuổi thơ em có một thời/Ươ'c mơ thì rộng như trời, ngàn năm”

 Câu 4. Viết đoạn văn nghị luận ngắn (khoảng từ 7 đến 10 câu) trình bày suy nghĩ cùa em về thông điệp được gửi gắm trong hai câu thơ “Thầy không ru đủ nghìn câulBiểt con chữ cũng đứng sau cuộc đời”.

 

0
Tôi không cãi chị. Quyền hạn phân công là ở chị. Thời gian bắt đầu căng lên. Trínão tôi cũng không thua. Những gì đã qua, những gì sắp tới…không đáng kể nữa. Cógì lí thú đâu, nếu các bạn tôi không quay về? Điện thoại réo. Đại đội trưởng hỏi tìnhhình. Tôi nói như gắt vào máy:- Trinh sát chưa về!Không hiểu vì sao mình gắt nữa. Lại một đợt bom. Khói vào hang. Tôi ho sặc sụavà...
Đọc tiếp

Tôi không cãi chị. Quyền hạn phân công là ở chị. Thời gian bắt đầu căng lên. Trí
não tôi cũng không thua. Những gì đã qua, những gì sắp tới…không đáng kể nữa. Có
gì lí thú đâu, nếu các bạn tôi không quay về? Điện thoại réo. Đại đội trưởng hỏi tình
hình. Tôi nói như gắt vào máy:
- Trinh sát chưa về!
Không hiểu vì sao mình gắt nữa. Lại một đợt bom. Khói vào hang. Tôi ho sặc sụa
và tức ngực. Cao điểm bây giờ thật vắng. Chỉ có Nho và chị Thao. Và bom. Và tôi
ngồi đây. Và cao xạ đặt bên kia quả đồi. Cao xạ đang bắn. Tiếng súng ở dưới đất lên
quả là có hiệu lực. Không gì cô đơn và khiếp sợ hơn khi bom gào thét chung quanh
mà không nghe một tiếng trả lời nào dưới đất. Dù chỉ một tiếng súng trường thôi, con
người cũng thấy mênh mông bên mình một sự che chở đồng tình. Cảm giác đó giống
như thấy mình có một khả năng tự vệ rất vững vậy… Sốt ruột, tôi chạy ra ngoài một tí.
Không thấy gì ngoài khói bom. Tôi lo. Đột nhiên cao điểm bên cạnh vang lên dồn dập
tiếng 12 li 7. Hay quá, tiểu đoàn công binh đấy. Họ chi viện cho các anh cao xạ, cho
chúng tôi. Bỗng dưng tôi muốn la toáng lên vì thích thú. Xung quanh cao điểm vắng
vẻ này có bao nhiêu là người. Các anh cao xạ, thông tin và công binh đều rất mến
chúng tôi. Chỉ cần chúng tôi bắn một phát súng báo hiệu yêu cầu giúp đỡ là họ sẽ
chạy đến ngay.
a/ Đoạn trích trên trích từ tác phẩm nào? Nêu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm
đó?
b/Nhân vật được nhắc đến đoạn văn trên là ai?
c/Đoạn văn trên nói về vẻ đẹp nào của nhân vật, tìm từ ngữ, câu văn chứng minh?

1
5 tháng 5 2020

1. Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê

Hoàn cảnh sáng tác:

- Được viết năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.

- Đây là tác phẩm đầu tay khá thành công của nữ nhà văn Lê Minh Khuê.

2. Nhân vật được nhắc đến: Nho, Thao, Phương Định.

5 tháng 11 2017

Phân tích bài thơ đồng chí.
Văn học Việt Nam 1945 – 1975 đã gắn bó mật thiết với vận mệnh cũng như với sự nghiệp cách mạng, sáng tạo nhiều hình tượng cao đẹp về Tổ quốc và con người Việt Nam trong chiến đấu, lao động, sinh hoạt. Lẽ tất nhiên, ở một đất nước không rời tay súng suốt ba mươi năm, hình tượng người lính là hình tượng đẹp nhất, nổi bật nhất trong văn thơ thời ấy và là niềm tự hào lớn của dân tộc. Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những tác phẩm viết về hình tượng cao đẹp ấy.

Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947 không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử - đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên Việt Bắc, bảo vệ cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến mà còn trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà thơ. Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu sáng tác năm 1941, sau khi ông cùng đồng đội tham gia chiến dịch này. Với thể thơ tự do, bài thơ được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong văn học thời kì kháng chiến chống Pháp. Những hình ảnh, ngôn ngữ chân thực, giản dị và giàu sức biểu cảm được viết nên từ những trải nghiệm của nhà thơ đã khắc sâu trong lòng người đọc hình ảnh người lính thời kháng chiến chống Pháp và tình đồng đội gắn bó keo sơn của họ.

Bài thơ mở đầu bằng những lời giới thiệu về cơ sở của tình đồng chí :

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Những lời tâm sự ấy đã nói lên cái chung đầu tiên của những người lính : chung cảnh ngộ. “Nước mặn đồng chua” gợi cho ta nhớ đến một vùng đồng bằng chiêm trũng đất phèn đất mặn, còn “đất cày lên sỏi đá” lại nhắc đến hình ảnh một vùng trung du khô cằn “chó ăn đá, gà ăn sỏi”. Bằng việc sử dụng những cụm từ giản dị quen thuộc trong văn học dân gian, nhà thơ đã gợi lên hình ảnh những con người cùng xuất thân từ những miền quê nghèo khổ, lam lũ, những người nông dân cùng chung cái nghèo của đất nước trong cảnh nô lệ, chiến tranh. Bởi thế nên ngay từ phút đầu gặp nhau, họ đã rất tự nhiên kể về hoàn cảnh gia đình khó khăn của mình qua cách xưng hô “quê hương anh” và “làng tôi”. Chính Hữu không xuất thân từ nông dân, nhưng những người đồng đội của ông là nông dân, nên lời thơ của ông thấm đẫm cái tình giản dị và mộc mạc của họ. Hai câu thơ với kết cấu sóng đôi, đối ứng nhau “quê hương anh” – “làng tôi” và “nước mặn đồng chua” – “đất cày lên sỏi đá” đã tạo nên một sự nhịp nhàng, đồng điệu giữa những người lính. Sự đồng cảm về giai cấp ấy chính là điều khiến những người nông dân từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành thân quen :

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Ngôn ngữ thơ vẫn rất giản dị, tự nhiên mà lại chứa đựng biết bao điều sâu kín. Những con người ấy tuy “xa lạ”, tuy mỗi người ở một “phương trời” khác nhau, tưởng chừng như không hề quen biết nhưng thật ra lại có một sự liên kết vô hình qua từ “đôi”. Tại sao tác giả lại dùng từ “đôi” mà không viết “hai người xa lạ” ? Vì bản thân từ “đôi” ấy đã hàm chứa những điều chung nhau, giống nhau, một sự thân thiết khó nói thành lời. Lời thơ viết là “chẳng hẹn” nhưng thực ra là đã có hẹn : anh và tôi có chung lòng yêu nước, chung khát khao đánh đuổi giặc để giải phóng quê hương nên cùng tự nguyện lên đường nhập ngũ để rồi “quen nhau”. Đó chẳng phải là một cái hẹn hay sao ? Cái hẹn ấy khiến ta nhớ đến những người lính trong bài “Nhớ” của Hồng Nguyên : “Lũ chúng tôi / Bọn người tứ xứ / Gặp nhau từ buổi chưa biết chữ / Quen nhau từ buổi “một, hai” / Súng bắn chưa quen / Quân sự mươi bài / Lòng vẫn cười vui kháng chiến.” Chung cảnh ngộ, chung lí tưởng chiến đấu, cái hẹn không lời mà mang bao ý nghĩa cao cả từ trong sâu thẳm tâm hồn của những người chiến sĩ ấy là cơ sở đầu tiên để tạo nên tình đồng chí của họ.

Quen nhau nhờ sự đồng cảm giai cấp, những người lính ấy trở nên gần gũi, thân thiết nhờ những điều rất bình dị mà vô cùng thiêng liêng :

Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Câu thơ không cầu kì, bay bướm mà vẫn gợi lên nhiều cảm xúc. Vì trong đó là chất giọng rất thực, rất sâu lắng, rất nhịp nhàng với cấu trúc tiểu đối và sóng đôi “súng” – “đầu”. Những người lính cùng chung nhiệm vụ, chung hoàn cảnh chiến đấu (“súng bên súng”), chung lí tưởng, chung ý chí chiến đấu vì độc lập tự do (“đầu sát bên đầu”) nên giữa họ nảy nở một tình đồng chí bền chặt, gắn bó trong mọi hoàn cảnh. Đó là mối tình “tri kỉ” của những người bạn chí cốt mà tác giả đã biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức biểu cảm : “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Trong suốt cả bài thơ, tác giả sử dụng những từ ngữ thuần Việt rất giản dị, chỉ dùng mỗi hai từ Hán Việt để thể hiện sự trân trọng của mình với hình ảnh được nhắc tới. Một trong số đó là “tri kỉ”, nghĩa là đôi bạn thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình. Với từ “tri kỉ” ấy, câu thơ tuy nói đến cái rét buốt của rừng đêm nhưng người đọc lại thấy tỏa ra từ đó hơi ấm của tình đồng đội. Cái rét đã kéo xích những người lính lại gần nhau hơn. Lúc đầu là “sát”, sau đó là “sát bên”, khoảng cách đã bị xóa nhòa, và cuối cùng với “chung chăn”, họ đã gắn kết và hòa chung lại với nhau trong một tình đồng chí sâu sắc và thiêng liêng. Nói là “đôi” mà thực chất chỉ là một, một tình bạn tâm giao cùng sẻ chia tất cả. Đó chính là bước đệm để tác giả hạ một dòng thơ đặc biệt với chỉ một từ :

Đồng chí !

Câu thơ là một câu cảm thán chỉ vỏn vẹn hai âm tiết với một dấu chấm than làm sáng lên ý nghĩa của cả đoạn thơ cũng như bài thơ, vang ngân như một nốt nhấn trong bản hòa tấu du dương về tình người trong chiến tranh. Ngay cả dấu chấm kia cũng là một dấu lặng đầy nghệ thuật. Hai tiếng đơn giản ấy là bản lề gắn kết hai đoạn thơ lại với nhau, là nhãn tự của cả bài thơ. Hơn thế nữa, “đồng chí” không chỉ là một tiếng gọi, một từ xưng hô giữa những người lính mà còn là một lời khẳng định, là tiếng nói thốt lên từ đáy lòng, kết tinh của những tình cảm, cảm xúc đẹp đẽ nhất thời chiến – tình người, tình bạn,… thành điều thiêng liêng và sâu lắng nhất – tình đồng chí. Ta lại nhớ đến những gì Chính Hữu từng viết về đồng đội trong bài “Giá từng thước đất” : “Đồng đội ta / Là hớp nước uống chung / Nắm cơm bẻ nửa / Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa / Chia khắp anh em một mẩu tin nhà / Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp / Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.” Tình đồng chí là thế đấy, nảy nở và lớn lên từ những gì giản đơn nhất, những gì thiêng liêng nhất và gắn bó keo sơn trong mọi hoàn cảnh thiếu thốn.

Nếu như sáu câu thơ đầu viết về cơ sở của tình đồng chí theo một lối quy nạp thì ở những câu thơ tiếp, bằng lối diễn dịch nhà thơ đã nói lên những biểu hiện của tình đồng chí. Trong mối liên kết bền chặt ấy, họ chia sẻ với nhau từ lí tưởng cho tới từng nỗi niềm tâm sự khi bỏ lại những gì thân thương nhất để ra đi vì nghĩa lớn :

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Đối với người nông dân, “ruộng nương”, “gian nhà” là những gì thân thuộc, gắn bó và quý giá nhất. Vậy mà anh đã gửi lại tất cả sau lưng để đi chiến đấu vì những điều cao cả, thiêng liêng hơn – độc lập, tự do. Câu thơ hay vì có chữ “không” rất giàu sức gợi, nó vừa đủ để diễn tả cái nghèo, không khoa trương nhưng cũng không bi lụy. Trong từ láy “lung lay” ở cuối câu thơ ấy ta cảm nhận được sự trống trải, khó khăn của một gia đình vắng người trụ cột. Người lính cũng hiểu điều đó, lòng anh cũng lưu luyến muốn ở lại. Nhưng đứng trước cảnh xâm lăng, là một người con của Tổ quốc, anh đã đặt lòng yêu nước lên trên đát cả, đặt nghĩa chung lên trên tình riêng. Hai chữ “mặc kệ” đã thể hiện thái độ lên đường thật rõ ràng, dứt khoát ấy. Nó gợi cho ta nhớ đến hình ảnh những anh Vệ quốc đoàn trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi : “Người ra đi đầu không ngoảnh lại / Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.” Nhưng người lính của Chính Hữu vẫn còn nặng lòng với quê hương nhiều lắm. Từ “mặc kệ” kia không thể hiểu theo nghĩa phó mặc, mà theo ngôn ngữ của người lính chỉ là một sự hoãn lại, đợi chờ cách mạng thành công. Vì nếu vô tình thì ở nơi chiến trường, làm sao họ cảm nhận được từng cơn gió lạnh lùa vào gian nhà trống của gia đình mình. Làm sao họ cảm nhận được tình thương nhớ hồn hậu của quê hương :

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Hình ảnh ẩn dụ “giếng nước gốc đa” thường được sử dụng trong ca dao để nói về quê hương làng xóm. Nhà thơ đã vận dụng tài tình chi tiết ấy, kết hợp với phép nhân hóa để gợi tả cảm giác phía sau người lính còn cả một gia đình, một hậu phương vững chắc đang chờ đợi. Ở đây chủ thể trong câu thơ không phải người lính, mà chính “giếng nước gốc đa” mới là chủ thể trữ tình. Đó là nơi họ sinh ra, lớn lên, dù có dứt khoát thế nào họ cũng không thể quên được. Chính cái thâm tình với hậu phương ấy đã biến thành động lực để người lính chiến đấu, không chỉ vì độc lập tự do cho Tổ quốc, mà còn để giải phóng quê hương. Và ở đây, nơi chiến trường, những người lính lại tìm được những tình cảm ấm áp và hồn hậu của quê nhà trong người bạn đồng chí của mình. Họ soi vào nhau, thấu hiểu và đồng cảm về tất cả. Tình đồng chí là bước đệm để nhà thơ mở ra vẻ đẹp tâm hồn của người lính : hy sinh thầm lặng vì Tổ quốc nhưng vẫn luôn nhớ về quê hương, gia đình ở hậu phương.
Và chính tâm hồn cao đẹp của tình đồng chí ấy đã giúp người lính vượt qua mọi gian lao, thách thức :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày

Một loạt những từ ngữ “ớn lạnh”, “sốt run người”, “ướt mồ hôi” đã đặc tả những cơn sốt rét rừng khủng khiếp mà rất quen thuộc với người lính thời ấy. Nếu trong cuộc sống gia đình, anh được bàn tay dịu dàng của người mẹ, người vợ ân cần chăm sóc thì ở đây, bàn tay ấy được thay bằng bàn tay của đồng đội. Sự chăm sóc ấy có thể vụng về, nhưng vẫn tràn đầy sự quan tâm, thấm đẫm tình đồng chí. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn lại, chuyển sang âm điệu chậm rãi của phép liệt kê, tái hiện lại cuộc sống thiếu thốn của đời lính. Đi kháng chiến, anh lính nông dân mang theo cả cái nghèo vào chiến khu. Quân đội ta ngày ấy thiếu thốn đủ thứ, từ quân lương, quân y đến quân phục, quân trang, quân dụng,… Thiếu cả đến cái phương tiện tối thiểu để giữ ấm bàn chân là đôi giày. Nhưng khi ta đọc đoạn thơ lên, cái khổ chỉ là một yếu tố phụ, vì tình đồng chí đã tỏa hơi ấm và tiếp thêm sức mạnh cho người lính. Cặp đối ứng “áo anh rách vai” – “quần tôi có vài mảnh vá” là gợi cái thiếu thốn nhưng thực chất lại mang ý nghĩa bổ sung. Tác giả miêu tả hai con người nhưng người đọc lại cảm thấy chỉ có một hình ảnh duy nhất – “đồng chí”. “Đồng chí” không còn chỉ là tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính mà đã trở thành một hình tượng có thực. Hình tượng ấy hóa thân vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống của người lính : “rách vai”, “có vài mảnh vá”, “chân không giày”. Ở Chính Hữu không còn sự khoa trương, tô vẽ như trong “Ngày về” : “Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm / Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”. Chất liệu hiện thực trong “Đồng chí” rất thật, thật tới mức trần trụi. Bài thơ lấy cảm hứng từ chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 mà tác giả tham gia cùng đồng đội nên ông hiểu và cảm nhận được rất rõ cái gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Nhưng trong hoàn cảnh đó, người lính vẫn “miệng cười buốt giá”. Tác giả đã rất tài tình khi tả nụ cười mà khiến người đọc cảm nhận được cái lạnh giá tê buốt của núi rừng mùa đông. Hình ảnh ấy vượt qua cái khắc nghiệt của chiến trường để đọng lại trong ta một ấn tượng thật đẹp về tinh thần lạc quan, về khí phách anh hùng, về sức chịu đựng bền bỉ, về sự hy sinh âm thầm của người chiến sĩ. Nó gợi cho ta nhớ đến cái cười âm vang cả Trường Sơn của những người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật : “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Người lính có thể thiếu thốn về vật chất nhưng không hề thiếu thốn về tinh thần :

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù khó khăn gian khổ đến bao nhiêu, chỉ cần một cái nắm tay là hai con người hòa vào làm một, hòa vào thành “đồng chí”. Đó là bàn tay giao cảm thay lời muốn nói, bàn tay của sự đoàn kết, gắn bó keo sơn. Bàn tay ấy truyền hơi ấm, cảm thông, động viên, chia sẻ, thắt chặt tình người, tình bạn. Nếu như trong thơ Phạm Tiến Duật, người lính “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” để gần nhau hơn trên chặng đường dài thì với Chính Hữu, cái nắm tay đầy tình thương kia là biểu tượng cao đẹp, nồng ấm và thiêng liêng nhất của tình đồng chí. Chiến tranh có thể tàn phá, cướp đi tất cả, nhưng không thể giết chết mối liên kết ấy. Chất liệu hiện thực sinh động chỉ là cái nền để tôn lên vẻ đẹp sâu lắng và sức mạnh của tình đồng chí - tình cảm đã giúp tác giả và biết bao người lính khác sống qua những tháng ngày lửa đạn.

Kết thúc bài thơ, Chính Hữu đã vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp về hình tượng người lính thời kháng chiến chống Pháp và tình đồng chí của họ :

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đoạn thơ giản dị như lời tự sự lại vừa đậm chất trữ tình. Tự sự là kể về một đêm chờ giặc, hoàn cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ. Đời lính đã thiếu thốn mà còn phải đứng giữa “rừng hoang”, lại thêm “sương muối” – những từ đặc tả sự khắc nghiệt của núi rừng Việt Bắc, cái lạnh tê buốt như kim đâm vào da thịt. Còn trữ tình là ở hình ảnh “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Những người lính thường đứng canh hai người cạnh nhau. Và trong sự tĩnh lặng và buốt giá của đêm rừng, họ vừa là duy nhất, vừa là tất cả của nhau. Thiên nhiên dù khắc nghiệt đến đâu cũng không thể làm lu mờ tình đồng chí ấy cũng như tư thế hiên ngang của người lính. Từ “chờ” đứng giữa hai cụm từ chỉ ta và giặc đã khắc họa đậm nét tư thế chủ động, gần như là ung dung ấy. Trong ánh sáng ngời lên của người đồng đội đứng cạnh, hình ảnh người lính càng đẹp hơn, cao hơn, vượt lên trên tất cả. Và như để làm cho bức tranh ấy đẹp hơn, nhà thơ đã đặt vào đó một hình tượng đầy ý nghĩa :

Đầu súng trăng treo

Hình ảnh ấy xuất phát từ chính hiện thực cuộc sống nên cho người đọc một ấn tượng khó tả. Vầng trăng ở miền rừng núi bao giờ cũng có cảm giác thấp hơn, trong hơn và thật hơn. Còn người lính đứng canh thì bao giờ nòng súng cũng hướng lên trời trong tư thế chuẩn bị. Hai hình ảnh tưởng chừng không có gì liên quan tới nhau ấy quyện lại tạo thành một hình ảnh “đầu súng trăng treo” đã in dấu trong lòng bao thế hệ người đọc. Thực chất lúc đầu tác giả viết “đầu súng mảnh trăng treo”, nhưng sau đó ông bớt đi chữ “mảnh” để tạo nên sự cân đối của câu thơ. Bốn chữ còn lại gợi lên một vầng trăng treo lơ lửng, chông chênh trên đầu ngọn súng giữa cái bát ngát của rừng núi và bầu trời đêm. Cảm nhận đó rất phù hợp với ý nghĩa ẩn dụ của “súng” và “trăng” : chiến tranh và hòa bình, thực tại và tương lai, hiện thực và lãng mạn, chất chiến đấu của chiến sĩ và chất trữ tình của thi sĩ,… Sự kết hợp hài hòa giữa hai hình ảnh đối lập ấy đã nói lên mục đích chiến đấu của người lính : chiến đấu cho hòa bình, cho ánh trăng mãi rạng ngời trên quê hương. Trong hình ảnh giàu sức biểu cảm ấy, nhịp lắc của vầng trăng trên đầu súng còn là nhịp đập của trái tim đồng chí. Trong đêm vắng lặng, người lính đứng cạnh nhau sẽ cảm nhận được tiếng trái tim của người kia. Nhịp tim chan chứa ấy hòa chung vào làm một thành nhịp đập vĩnh cửu của tình đồng chí.

Đối với nghệ thuật, người nghệ sĩ phải bén rễ vào cuộc đời, hút lấy nguồn nhựa dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống, đem tôi luyện trong cảm xúc của mình để kết tinh thành những viên ngọc sáng ngời để lại cho đời. Nhà thơ Chính Hữu đã làm được điều đó. Đến với “Đồng chí”, ta cảm nhận được hình ảnh người lính cách mạng và tình cảm gắn bó keo sơn của họ qua ngôn ngữ, hình ảnh cô đọng, chân thực và gợi cảm. Bài thơ đã khắc họa nên bức tranh sống động và hiện thực nhất về một quá khứ gian khổ vô cùng nhưng đầy ắp tình đồng đội, về những con người đã vượt qua tất cả để giành lấy hòa bình, độc lập ngày hôm nay.

5 tháng 11 2017

I. Tìm hiểu chung :

*Tác giả-Tác phẩm : 

 - Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Phần lớn thơ ông hướng về đề tài người lính với lời thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ hàm súc, cô đọng giàu hình ảnh
- Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ viết về người lính hay của ông. Bài thơ đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.

II. Tìm hiểu chi tiết :

1. Trong 7 câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng :
- Cùng chung cảnh ngộ xuất thân: Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo lính. Từ giã quê hương, họ ra đi tình nguyện đứng trong đội ngũ những người chiến đấu cho một lí tưởng chung cao đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc.

- Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.

=> Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê anh – làng tôi” đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ. Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.
- Cùng chung lí tưởng chiến đấu: Trước ngày nhập ngũ, những con người này vốn “xa lạ”:

2. Nhưng Chính Hữu đã không dừng lại ở việc biểu hiện những xúc cảm về quá trình hình thành tình đồng chí. Trong mười câu thơ tiếp theo nhà thơ sẽ nói với chúng ta về những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí
Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến sĩ: “Ruộng nương” đã tạm gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” giờ để “mặc kệ gió lung lay”. Lên đường đi chiến đấu, người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những tính toán riêng tư. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên được cái kiên quyết dứt khoát mạnh mẽ của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng những người lính nông dân hiền lành chân thật ấy vẫn nặng lòng với quê hương. 

- Cùng hướng về một lí tưởng, cùng nếm trải sự khắc nghiệt của chiến tranh, người lính chia sẻ cho nhau tình thương yêu ở mức tột cùng. Chi tiết “miệng cười buốt giá” đã ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thân lạc quan của người chiến sĩ. Rồi đến cái cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện được tình thương yêu đồng đội sâu sắc. Cách biểu lộ tình thương yêu không ồn ào mà thấm thía. Trong buốt giá gian lao, những bàn tay tìm đến để truyền cho nhau hơi ấm, truyền cho nhau niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh để vượt qua tất cả, đẩy lùi gian khổ. Những cái nắm tay ấy đã thay cho mọi lời nói. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thương!

III - Kết luận:


Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị lại vừa mang vẻ đẹp cao cả thiêng liêng, thơ mộng. Cấu trúc song hành và đối xứng xuyên suốt bài thơ làm hiện lên hai gương mặt người chiến sĩ rất trẻ như đang thủ thỉ, tâm tình, làm nổi bật chủ đề tư tưởng: Tình đồng chí gắn bó keo sơn. Chân dung người lính vệ quốc trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp hiện lên thật đẹp đẽ qua những vần thơ mộc mạc, chân tình mà gợi nhiều suy tưởng. Với những đặc điểm đó, bài thơ xứng đáng là một trong những tác phẩm thi ca xuất sắc về đề tài người lính và chiến tranh cách mạng của văn học Việt Nam.

a;Phân tích bài thơ sau Không có kính không phải vì xe không có kínhBom giật, bom rung kính vỡ đi rồiUng dung buồng lái ta ngồi,Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắngNhìn thấy con đường chạy thẳng vào timThấy sao trời và đột ngột cánh chimNhư sa, như ùa vào buồng láiKhông có kính, ừ thì có bụi,Bụi phun tóc trắng như người giàChưa cần rửa, phì phèo châm điếu...
Đọc tiếp

a;Phân tích bài thơ sau

 

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

b:Chỉ rõ giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung có trong bài thơ trên

c; Phân tích câu thơ cuối của bài thơ

d:Đừng chép sách hay chép mạng

3
27 tháng 10 2017

a) Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Với phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc, những bài thơ viết về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam qua hình tượng những cô gái thanh niên xung phong và những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến đã để lại trong người đọc ấn tượng sâu đậm. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ như thế.

Những chiếc xe không có kính - hình ảnh thơ độc đáo đã khiến cho nhan đề bài thơ trở nên hết sức đặc biệt - tưởng chừng như tác giả sắp viết một câu truyện dài vậy. Hình ảnh ấy đã làm nổi bật lên hình tượng những người lính trẻ, những người lái xe ở thời kì đó: trẻ trung, sôi nổi và có gì đó ngang tàng, hóm hỉnh. Không biết nhà thơ đã bao giờ ngồi trong buồng lái hay trực tiếp cầm vô lăng chưa mà giọng thơ lại sôi động, tự nhiên và đầy hứng khởi đến vậy?

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Từ ngôn từ, phong cách, nội dung đến nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên, mộc mạc, có sức gợi tả, gợi cầm. Câu thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: những chiếc xe không kính. Mặt khác, lời giải thích của tác giả về những chiếc xe đặc biệt ấy cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe đã bị phá huỷ bởi bom giật, bom rung - những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ. Hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi dầu đầy ấn tượng cho bài thơ. Rồi ở khổ cuối cùng của bài thơ, Phạm Tiến Duật lại một lần nữa tái hiện lại hình ảnh chiếc xe:

Không có kính rồi xe không có đèn

 Không có mui xe, thùng xe có xước,

Những chiếc xe ấy bị biến dạng, bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt làm sao: sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người. Vậy mà, những chiếc xe ấy, dưới con mắt của Phạm Tiến Duật, vẫn hiện lên một cách rất độc đáo, rất có hồn, rất ngang tàng. Và vô hình trung, chúng đã trở thành biểu tượng đặc trưng của cuộc kháng chiến chông Mĩ. Và có lẽ vì thế, mà chúng dã làm nổi bật lên hình ảnh những người lính lái xe – thế hệ trẻ Việt Nam hiện lên trong cuộc kháng chiến trường kì. Thơ như lời nói, lời kể chân tình:

Ung dung buồng lái ta ngồi,

    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhịp thơ ngắn, nhanh, điệp từ nhìn lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động cho câu thơ. Rồi sau đó, lại là lời kể về những sự vật được nhìn thấy trên đường:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

          Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

 Như sa như ùa vào buồng lái.

Những người lính lái xe vẫn ung dung, vẫn nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Lời thơ mà nhịp nhàng, sôi nổi như lời ca, tiếng hát, khiến không khí bài thơ thật vui tươi, sôi động.

Khi chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biêt bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì xe không có kính:

Không có kính, ừ thì có bụi,

      Bụi phun tóc trắng như người già

Không có kính, ừ thì ướt áo

        Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

Thế nhưng, không có kính thì tác giả lại có bụi rồi có mưa tuôn, mưa xối. Cấu trúc thơ lặp đi lặp lại - ừ thì - đã làm toát lên thái độ bất chấp, không hề run sợ, coi thường mọi khó khăn. Những câu thơ như vang lên tiếng cười vui vẻ, cười để lạc quan yêu đời, để phớt lờ mọi khó khăn, để động viên mình và động viên đồng đội. Và niềm lạc quan ấy còn được thể hiện bằng hành động:

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Và:

   Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

 Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ vậy, họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn, khăng khít. Sự tụ họp lại của những chiếc xe đồng cảnh ngộ đã gắn kết những người lính lại với nhau và qua của kính vỡ họ làm quen với nhau:

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Chao ôi! Kì lạ làm sao! Những con người ấy vốn dĩ không hề quen biết vậy mà giờ đây, trong gian khổ, họ thân thiết gắn bó, họ chào nhau như những người bạn đã quen. Và rồi kỉ niệm như ùa về trong tâm trí nhà thơ. Có lẽ vì ông cũng là một người lính nên ông thấu hiểu, đồng cảm tình đồng đội, đồng chí:

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Gia đình - hai tiếng thân thương gợi hình ảnh những con người cùng huyết thống. Họ, những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng - dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam, giải phóng đất nước:

     Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Tuy chiếc xe có bị phá huỷ, nát tan đến mức nào, dù gian khổ khó khăn bao nhiêu, nhưng chỉ cấn trong xe có một trái tim. Đúng vậy! Chính tình yêu Tổ quốc đã cầm lái, đã là động lực thúc đẩy, giúp những người lính có thêm sức mạnh trước mỗi khó khăn. Lời thơ nhẹ nhàng như một lời khẳng định chắc nịch, ngắn gọn. Câu thơ kết của bài thơ có lẽ là câu thơ hay nhất đã kết lại sức mạnh của con người chính là ở tình yêu, tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào và tình yêu hoá thành ý chí - kiên cường và vững bền. Nhưng đồng thời, nó cũng mở ra, gợi ra cánh cửa ánh sáng: miền Nam, nơi mà người dân đang trông ngóng cách mạng trong từng khoảnh khắc.

Phạm Tiến Duật với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm, có phần tếu táo đã làm cho bài thơ trở nên thật đặc biệt, rất có hồn. Ngôn từ giản dị, thơ mà có nhạc, trong nhạc có thơ, hình ảnh sáng tạo mà vẫn đầy chân thực... Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên dấu ấn đặc trưng cho tác phẩm - in sâu trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ gian khổ, ác liệt.



 

5 tháng 11 2017

Giải như sau.

(1)+(2)⇔x2−2x+1+√x2−2x+5=y2+√y2+4⇔(x2−2x+5)+√x2−2x+5=y2+4+√y2+4⇔√y2+4=√x2−2x+5⇒x=3y(1)+(2)⇔x2−2x+1+x2−2x+5=y2+y2+4⇔(x2−2x+5)+x2−2x+5=y2+4+y2+4⇔y2+4=x2−2x+5⇒x=3y

⇔√y2+4=√x2−2x+5⇔y2+4=x2−2x+5, chỗ này do hàm số f(x)=t2+tf(x)=t2+t đồng biến ∀t≥0∀t≥0
Công việc còn lại là của bạn ! 

Bài 3: Cho em câu thơ: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.- Chép chính xác 3 câu thơ tiếp theo câu thơ trên (ghi chú tên bài thơ và tác giả).- Viết 1 đ.văn d.dịch khoảng 8 – 10 câu p.tích h.ảnh hàng tre trong khổ thơ em vừachép. Trong đoạn, có sử dụng 1 câu bị động.Trong một bài thơ, nhà thơ Viễn Phương viết:Mai về niền Nam thường trào nước mắtMuốn làm con chim hót quanh lăng BácMuốn làm đóa hoa...
Đọc tiếp

Bài 3: Cho em câu thơ: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
- Chép chính xác 3 câu thơ tiếp theo câu thơ trên (ghi chú tên bài thơ và tác giả).
- Viết 1 đ.văn d.dịch khoảng 8 – 10 câu p.tích h.ảnh hàng tre trong khổ thơ em vừa
chép. Trong đoạn, có sử dụng 1 câu bị động.

Trong một bài thơ, nhà thơ Viễn Phương viết:
Mai về niền Nam thường trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

1. Đoạn thơ trên được trích trong văn bản nào? Nêu hoàn cảnh ra đời bài thơ?
(1,5điểm)
2. Hình ảnh “cây tre trung hiếu” lặp lại ở cuối bài thơ có ý nghĩa gì? (1 điểm)
3. Từ việc hiệu tấm lòng thành kính, biết ơn Bác Hồ của tác giả, của nhân dân ta trong
bài thơ trên, em nội hãy viết một bài văn nghị luận khoảng 2/3 trang giấy thi nêu suy
nghĩ của mình về phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ” đang

được học sinh tham gia hưởng ứng nhiệt tình trong các nhà trường hiện nay. (1,5
điểm)

2
9 tháng 4 2020

1. Chép chính xác 3 câu thơ tiếp để hoàn chỉnh khổ thơ?

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

2. Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ? Hoàn cảnh ấy có liên quan gì đến cảm xúc của nhà thơ?

Bài thơ ra đời tháng 4/1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, lăng Bác vừa khánh thành. Tác giả là người con miền Nam, lúc này ông mới thực hiện được ước nguyện ra thăm lăng Bác.

Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để nhà thơ sáng tác bài thơ này.

3. Từ những câu thơ đã chép, kết hợp với hiểu biết của em về bài thơ, hãy cho biết cảm xúc trong bài thơ được biểu hiện theo trình tự nào? Sự thật là Người đã ra đi nhưng vì sao nhà thơ vẫn dùng từ “thăm” và cụm từ “giấc ngủ bình yên”?

Cảm xúc trong bài thơ được thể hiện theo trình tự của một cuộc viếng thăm, thời gian kết hợp với không gian: Từ lúc đứng trước lăng, vào lăng và rời xa lăng Bác; cảm xúc của tác giả đan xen, có sự thay đổi trong quá trình đó.

Sự thật là Người đã ra đi nhưng vì sao nhà thơ vẫn dùng từ “thăm” và cụm từ “giấc ngủ bình yên” vì: “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống. Đây là cách nói giảm, nói tránh làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát, đồng thời khẳng định Bác vẫn còn sống mãi trong trái tim nhân dân Việt Nam. Cụm từ “giấc ngủ bình yên” một lần nữa khẳng định: Trong sâu thẳm mỗi người, Bác chưa hề ra đi. Đây là một cuộc thăm hỏi, trở về của người con xa cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng mong ước bấy lâu.

4. Có ý kiến cho rằng: Khổ thơ thứ nhất của bài thơ “Viếng lăng Bác” là những cảm xúc bồi hồi xao xuyến của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác”. Hãy viết đoạn văn (10 – 12 câu) Tổng – phân – hợp để làm sáng tỏ ý kiến trên. Đoạn văn có sử dụng khởi ngữ và thành phần biệt lập (gạch chân và chú thích)?

Khổ thơ thứ nhất của bài thơ “Viếng lăng Bác” là những cảm xúc bồi hồi xao xuyến của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác. Mở đầu khổ thơ là một lời thông báo ngắn gọn, giản dị nhưng chứa đựng được biết bao điều sâu xa. Cách xưng hô gần gũi, thân mật của tác giả khiến tình cảm trở nên ấm áp mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Với biện pháp nói giảm, nói tránh, tác giả dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” đã khẳng định Bác vẫn còn mãi trong lòng dân tộc. Hình ảnh ẩn dụ “hàng tre” biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người, dân tộc Việt Nam. Dường như niềm xúc động và tự hào về đất nước, dân tộc đã được nhà thơ bộc lộ trực tiếp qua từ cảm thán “Ôi”. Còn hàng tre, đó là đại diện cho những con người ở mọi miền trên đất nước về đây sum vầy bên Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Chỉ với một khổ thơ ngắn, Viễn Phương đã thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng đối với Bác kính yêu.

ĐỀ 2. Trong bài thơ “Viếng lăng Bác”, Viễn Phương viết:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

1. Hình ảnh “mặt trời” nào là ẩn dụ? Hãy phân tích ý nghĩa hình ảnh ẩn dụ đó trong việc thể hiện lòng ngưỡng mộ và biết ơn đối với Bác của tác giả?

Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là ẩn dụ. Đây là hình ảnh sáng tạo, độc đáo – hình ảnh Bác Hồ. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn sáng, nguồn sức mạnh. “Mặt trời” – Bác Hồ soi đường dẫn lỗi cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. “Mặt trời” – Bác Hồ tỏa hơi ấm tình thương bao la trong lòng mỗi con người Việt Nam. Cách ví đó vừa ca ngợi sự vĩ đại, công lao trời biển của Người vừa bộc lộ niềm tự hào của Viễn Phương nói riêng và toàn dân tộc nói chung.

2. Chép lại hai câu thơ có hình ảnh “mặt trời” trong một bài thơ em đã học ở chương trình Ngữ văn 9 (ghi rõ tên tác giả, tác phẩm) cũng dùng phép ẩn dụ như vậy?

Đó là câu thơ:

” Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”

Trong bài thơ ” Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ” của Nguyễn Khoa Điềm.

Đề 3. Cho khổ thơ:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

1. Người ta thường nói nghe thấy âm thanh nhưng ở đây Viễn Phương lại viết “Nghe nhói ở trong tim”. Em hãy lí giải điều tưởng chừng vô lí này?

Câu thơ “Mà sao nghe nhói ở trong tim” là một cách viết lạ, tưởng chừng như vô lí nhưng lại có lí khi bộc lộ tâm trạng đau xót và tiếc nuối không nguôi trước sự ra đi của Bác. Sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, Viễn Phương đã thể hiện cảm xúc đau xót tới đỉnh điểm. “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột, quặn thắt.

Cách viết ấy đã bộc lộ nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn nhà thơ – nỗi đau uất nghẹn tột cùng không thể nói nên lời.

2. Viết đoạn văn theo phương thức quy nạp để phân tích khổ thơ trên?

Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ trong giấc ngủ bình yên, trang nghiêm cùng ánh sáng trong trẻo, dịu nhẹ của vầng trăng. Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng hình ảnh ẩn dụ “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Trời xanh – hình ảnh thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng. Nhà thơ muốn nói rằng: Bác vẫn còn mãi với đất nước, dân tộc. Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu trái tim nhân dân Việt Nam vẫn đau xót và tiếc nuối khôn nguôi trước sự ra đi của Bác. “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột, quặn thắt. Cách viết ấy đã bộc lộ nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn nhà thơ – nỗi đau uất nghẹn tột cùng không thể nói nên lời. Cặp quan hệ ” vẫn – mà” diễn tả cảm giác mâu thuẫn, cảm xúc ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết ” trời xanh là mãi mãi “. Khổ thơ khép lại nhưng những tình cảm, những cảm xúc chân thành của nhà thơ trào dâng mạnh mẽ – đó là một tấm lòng chân thành, đáng yêu.

Đề 4. Cho câu thơ:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

1. Chép chính xác 3 câu thơ tiếp để hoàn chỉnh khổ thơ?

Ba câu thơ tiếp:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

2. Hình ảnh “cây tre” trong khổ thơ vừa chép đã được nhắc đến trong những câu thơ nào? Sự lặp lại như vậy có ý nghĩa gì?

Hình ảnh “cây tre” đã được nhắc đến trong những câu thơ:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Sự lặp lại như vậy có ý nghĩa: Hình ảnh “hàng tre” có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quang lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện chung của đồng bào miền Nam, của mỗi chúng ta với Bác.

3. Viết đoạn văn ngắn khoảng 10 câu theo phương thức diễn dịch để làm rõ cảm xúc lưu luyến, bịn rịn của tác giả đối với Bác khi rời Lăng.

Khổ thơ cuối trong bài thơ là cảm xúc lưu luyến bịn rịn của tác giả đối với Bác khi rời xa Lăng. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén được mà bộc lộ ra ngoài: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Câu thơ như một lời giã biệt, diễn tả tình cảm sâu lắng – một cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Mặc dù lưu luyến, muốn ở mãi bên Bác nhưng Viễn Phương cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và nhà thơ chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng Bác để được ở mãi bên Người. Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên: “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Nhà thơ ao ước hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem hương sắc điểm tô cho vườn hoa quanh lăng Bác. Đặc biệt, ước nguyện làm cây tre để nhập vào hàng tre bát ngát canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người, “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính  yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện chung của đồng bào miền Nam, của mỗi chúng ta với Bác.

4. Chép lại một đoạn thơ cũng thể hiện ước nguyện làm con chim hót, làm một nhành hoa của tác giả khác trong chương trình Ngữ văn 9? Ghi rõ tên tác phẩm, tác giả?

Đó là đoạn thơ:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

Đoạn thơ thuộc bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.

17 tháng 4 2020

đã thấy trong sương hàng tre bát ngát 

ôi ! hàng tre xanh xanh Việt Nam 

bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

1 viếng lăng bác hcrđ cuộc kháng chiến chống MĨ đã kết thúc đất nước được thống nhất lăng bác cũng vừa được khánh thành tác giả từ miền nam ra thăm lăng basccho thỏa nỗi nhớ mong

2 cây tre trung hiếu thể hiện tấm lòng thành kính của tác giả đối với bác muốn được giữ cho bác giấc ngủ bình yên và nguyện đi theo con đường bác làm và những điều bác dạy.