Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chiếc kéo được phát minh khoảng năm 1500 TCN ở Ai Cập cổ đại. ... Kéo dùng lò xo tiếp tục được sử dụng ở châu Âu cho đến thế kỷ thứ 16. Tuy nhiên, kéo xoay bằng đồng hoặc sắt, trong đó lưỡi bị xoay tại một điểm giữa một tâm và tay cầm, tổ tiên trực tiếp của kéo hiện đại, được người La Mã phát minh vào năm khoảng 100.
Cây mai vốn là một loại cây rừng. Ngày xưa, khi đi khai khẩn đất phương nam, ông cha ta tìm thấy một loại hoa rừng cũng có năm cánh, cũng nở vào dịp Tết như hoa đào nên đem về nhà chưng để tưởng nhớ về cái Tết nơi quê nhà. Từ đó, chưng hoa mai đã trở thành phong tục ngày Tết của mỗi gia đình miền Nam.
Cây mai có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo sách “Trân hương bảo ngự” của Phí Cung Ấn, đời Minh chép rằng: “Đắc Kỷ ái lãm hàn mai, Trụ tằng ngự tuyết đồng lãm chi”. Nghĩa là Đắc Kỷ thích ngắm hoa mai trong giá lạng. Trụ vương thường đội tuyết cùng ngấm. Như vậy, cách đây đã hơn 3000 năm, cây mai đã có mặt trên đất nước Trung Quốc.
Tham khảo nhé !
Có một màu hoa đỏ đang rực cháy trong sân trường, trong trái tim tôi và dù đã đi qua bao mùa hoa đỏ như thế trong lòng tôi vẫn luôn cảm thấy bâng khuâng, xao xuyến. Đó là màu đỏ tươi thắm của những bông hoa phượng, cây phượng nơi góc sân trường đã bao lần trổ hoa, bao lần chào đón và tiễn đưa các thế hệ học sinh, âm thầm lặng lẽ ghi dấu biết bao kỉ niệm vui buồn. Cây phượng cũng chỉ như bao loài cây khác nhưng nhờ có con người mà chúng đã trở nên thật đặc biệt với những ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
Chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh cây phượng trên khắp mọi nơi, từ Bắc vào Nam, từ đường phố, công viên trường học hay ngay trong vườn nhà cũng có cây phượng, thế nhưng đã mấy ai biết về nguồn gốc của loài cây này. Nơi được coi là quê hương của loài cây phượng nằm ở Madagascar - một đảo quốc nằm gần Châu Phi trên Ấn Độ Dương. Từ đây họ hàng của cây phượng đã được phân tán đi khắp nơi trên thế giới, bởi vậy mà nó có rất nhiều tên gọi khác nhau, ở Việt Nam thường gọi là “hoa phượng” hay “phượng vĩ”, “phượng vỹ”, còn bên Trung Quốc họ gọi hoa phượng là “phượng hoàng mộc”, tên tiếng Anh của loài hoa này là “flamboyant”. Phượng là một loài cây cổ thụ, với giống phượng đại thân cây có thể cao đến 20 mét, gốc cây bằng cả một người ôm. Thân cây phượng dù già cỗi cũng không bị xù xì xấu xí, bởi chúng được thay áo liên tục với lớp vỏ mới trông khá nhẵn nhụi, khi cạo nhẹ lớp vỏ màu nâu sẽ thấy ngay màu xanh của thân cây. Thân cây càng lớn thì tán cây càng to, cây phượng ít phát triển chiều cao mà chủ yếu là phát triển mặt tán, càng lớn càng muốn tán của mình che được nhiều hơn, ôm trọn một mái nhà hay góc vườn nào đó. Tán của nó rất dày, rất ít những tia nắng có thể lọt qua được, nó tạo nên những bóng râm rộng và mát mẻ. Người ta trồng phượng cái chính là bóng râm nhưng chủ yếu cũng là ngắm hoa, chẳng ai lại không bị thu hút ánh nhìn bởi hoa phượng bởi cái màu đỏ chót chói lọi rực rỡ của nó dù không muốn nhìn cũng cố tình chen vào tầm mắt. Phượng mọc hoa thành từng chùm lớn, mỗi chùm 4-5 cành hoa, hoa phượng rực rỡ nhưng mỏng manh, những cánh hoa dài cuống nhỏ với 4 cánh nhỏ màu đỏ tươi còn một cánh hoa to lốm đốm màu trắng. Nhìn bông hoa phượng giống như những vũ công mặc chiếc váy xòe màu đỏ đang nhún nhảy. Lá phượng lại giống đuôi chim, lá phức nhỏ li ti màu xanh nhạt, ở Việt Nam phượng thường có thời kì rụng lá đến trơ trụi cả cây. Quả phượng rất dài, khoảng 30-50cm, quả già thường cứng, dẹt và có màu nâu sẫm. Có thể nói phượng là loài cây “dễ tính”, tuy chúng chỉ phát triển ở vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới nhưng lại có thể chịu hạn, chịu mặn tốt. Cây phượng đã đi vào cuộc sống của con người ngày một gần gũi, thân thương, nó được đem trồng ở khắp nơi, làm bóng mát, làm cây cảnh ở hè phố, cơ quan trường học hay vườn nhà. Đặc biệt hoa phượng nơi sân trường đã là một biểu tượng cho mùa hè, cho thời học sinh, ve kêu hoa phượng nở, học sinh tạm chia tay nhau nghỉ hè. Những xúc cảm mà hoa phượng mang đến đã được các nghệ sĩ nắm bắt trọn vẹn, có người đã viết ca khúc về hoa phượng, làm thơ về phượng vĩ như bài hát “Mùa hoa phượng nở” của nhạc sĩ Hoàng Vân, bài thơ “Phượng hồng” của Quốc Phương. Còn đối với những người học trò, có ai lại chưa từng nhặt hoa phượng ép cánh hoa vào trang sách rồi chờ cánh hoa khô trao tặng cho nhau làm kỉ niệm. Dưới gốc cây phượng chơi trốn tìm, dưới bóng cây phượng ngồi kể chuyện cho nhau nghe rồi đến khi nghỉ hè chia tay lại tặng nhau những bông hoa phượng để tình bạn sẽ mãi tươi thắm như những cánh hoa.
Cây phượng nói chung và hoa phượng nói riêng xứng đáng là một người bạn, là tri kỷ gắn bó với bao người. Mỗi mùa hoa phượng nở rồi tàn đã gieo vào lòng người bao cảm xúc, nỗi niềm thương nhớ, tiếc nuối xen lẫn hy vọng.
Cây đào có nguồn gốc từ nước Ba Tư và được trồng ở nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Mông Cổ, Lào... vừa cho hoa đẹp vừa cho quả ăn.
Tên khoa học: Prunus persica, Stokes (amygdalus persica Linn).
Thuộc họ: Hoa Hồng (Rosaceae).
Ở Việt Nam nhiều nhất là Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang... ở Lâm Đồng được trồng tại Đà Lạt.
đôi dép lốp xuất phát từ những gì đã có sẵn trên chiến trường. Có thể nói trong chính điều kiện chiến tranh khắc nghiệt nên nhân dân ta đã biết sáng tạo những cái đáng ra vất đi không thể dùng được nữa thì lại có thể dùng được.
Kháng chiến p bùng nổ, Cách mạng nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Chính trong hoàn cảnh đầy gian khổ và thiếu thốn ấy mà tình yêu nước và óc sáng tạo của nhân dân ta được phát huy. Chiếc mũ nan lớp vải, áo trấn thủ và đặc biệt là đôi dép được cắt từ lốp và ruột xe ôtô cũ đã qua sử dụng làm hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thật giản dị, gần gũi và thân thương.
Có lẽ những cây bút đầu tiên được làm ở Ai Cập. Những người Ai Cập đã làm ra cây bút từ những cây sậy rỗng ruột và bọc một miếng đồng ở phần đầu. Chữ viết xuất hiện ở Hy Lạp gần 4000 năm trước đây và người ta đã dùng những miếng kim loại hoặc xương voi để viết lên những tấm bảng phủ sáp. Sau này người ta còn vót nhọn những thân cây cành cây để làm bút, những chiếc bút này được chấm vào dung dịch có màu và viết lên vỏ cây.
Năm 1884, anh nhân viên môi giới bảo hiểm Lewis Waterman phát chán với những bất tiện trên đã tiến hành một cuộc cách mạng trong thế giới bút. Waterman phát hiện ra rằng lực hút mao dẫn có mối liên hệ động lực với áp suất khí quyển. Waterman tạo ra hai hoặc ba rãnh để không khí và mực đồng thời vận động. Không khí sẽ thế chỗ của phần mực đã sử dụng.
Theo các nhà nghiên cứu, chữ Nôm hình thành và phát triển từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX trên cơ sở chữ Hán của người Trung Quốc. Trong suốt quãng thời gian này, chữ Nôm là công cụ duy nhất hoàn toàn Việt Nam ghi lại lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Người Việt sáng tạo ra chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt, tiếng Tày, tiếng Dao tạo thành các văn tự Nôm Việt, Nôm Tày, Nôm Dao. Cứ liệu sớm nhất về chữ Nôm là bài văn khắc trên quả chuông Vân Bản năm 1076, thời nhà Lý, thế kỷ XI.
Tick nhoa!!! :3
Tiếng Việt có phải tự ngàn xưa đã là một tiếng nói thật sự thuần Việt hay là một kết quả của sự hỗn hợp trại lẫn của nhiều tiếng nói khác nhau
Trước khi tìm về cội nguồn tiếng Việt, việc phải làm đầu tiên là ta phải đi ngược dòng thời gian để tìm ra gốc tích của tổ tiên Việt Nam. Qua đó, ta mới có thể truy nguyên được tiếng nói của dân tộc. Vì thời gian lịch sử xa xăm mù mịt, vấn đề nguồn gốc Việt Nam, cũng như nguồn gốc tiếng Việt thật khó mà khẳng định một cách chính xác. Kê cứu theo sử ký, truyền thuyết, giả thuyết và nhất là những ý kiến, lập luận, ức thuyết của các học giả, sử gia Việt, Pháp, Tàu thì vấn đề này càng rẽ ra trăm mối, bất nhất và mâu thuẫn