Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài, nhân vật Mị đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Đó là một cô gái Mèo trẻ đẹp, yêu đời có khát khao tự do cháy bỏng nhưng phải sống một cuộc sống đau khổ trong “địa ngục trần gian” nhà thống lí với thân phận người con dâu gạt nợ. Nếu như quãng đời tù ngục ấy luôn tồn tại sự đấu tranh âm ỉ mà mãnh liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà trong bóng tối, phải chăng là một hình ảnh đã cô đúc sâu sắc và thấm thía về cái hiện thực cuộc sống đau khổ kia? Nhà văn Tô Hoài như đã hóa thân vào nhân vật để viết nên một đoạn văn thật tinh tế và giàu ý nghĩa: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Tết đến xuân về, khi không khí và vạn vật hồi xuân, lòng Mị cũng như hồi sinh. Âm thanh tiếng sáo tha thiết của quá khứ cùng với những khát khao tự do cháy bỏng đã vẫy gọi Mị đi theo khát vọng của riêng mình. Mị sửa soạn để đi chơi, tìm đến nơi đang lơ lửng bay tiếng sáo gọi bạn tình. Nhưng đáng thương thay, khi Mị chưa kịp đi thì bị A Sử bắt gặp. Hắn giữ Mị lại và thô bạo trói đứng Mị vào cột nhà, rồi bỏ đi, để lại Mị trơ trọi và cô đơn trong bóng tối…
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói…” Dường như Mị vẫn đang toàn tâm toàn ý sống trọn trong thế giới nội tâm tươi đẹp, trong những mong ước và khát khao của chính mình. Mị thả hồn đi theo tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước để tìm lại tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc. “Hơi rượu còn nồng nàn, Mị nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi: Em không yêu quả pao rơi rồi…” Mị vẫn đang chập chờn trong cơn say, nửa mê nửa tỉnh mà không biết đến hoàn cảnh mình trong hiện tại. Mị chỉ hướng đến tiếng sáo mà thôi! Và cũng chính tiếng sáo ấy đã gọi Mị vùng bước đi, để rồi trở về với cuộc sống đầy tối tăm đau khổ trong thực tại. Tô Hoài đã thật thành công khi xây dựng nên tâm trạng của Mị, nhờ đó, người đọc cảm nhận thấm thía hơn về sức sống mãnh liệt đang dâng trào như từng lớp sóng ào ạt trong tâm hồn Mị!
Nếu như ở các đoạn trước, men rượu và tiếng sáo đã đưa Mị trở về sống với những ước mơ, khát vọng, thì giờ đây những vòng dây trói siết chặt đã kéo cô về với thực tại, với số phận đau khổ của mình! “Mị vùng bước đi” trước sự quyến rũ và mời gọi của tiếng sáo, thế nhưng “tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa.” Tiếng sáo vụt tắt, ước mơ tan biến, thay vào đó là hiện thực trần trụi, phũ phàng: “Chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vào vách.” Với hai từ “bước đi”, dường như Mị đã bước sang một thế giới khác đầy tối tăm, đau khổ! Nhưng không chỉ đau đớn về thể xác, Mị còn cay đắng nhận ra số phận mình không bằng con ngựa! “Ngựa vẫn đứng yên gãi chân nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa…” Cái dây trói kia chỉ có thể làm Mị đau đớn về thể xác, nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa về thân phận con người!
Chỉ với một đoạn văn ngắn gọn, được xây dựng bởi những chi tiết cô đọng giàu ý nghĩa, tác giả đã khắc họa một cách sâu sắc và tinh tế tâm trạng của nhân vật trong hai cảnh đối lập: ước mơ tự do – hiện thực tù ngục: từ khi chập chờn, mê man theo tiếng sáo như một kẻ mộng du, rồi dẫn đến hành động “vùng bước đi” để rồi tỉnh lại và cay đắng xót xa cho thân phận khi “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Hai tâm trạng ấy nối tiếp nhau để góp phần xây dựng nên hoàn chỉnh bức chân dung thân phận của nhân vật.
Với ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, những chi tiết vừa hiện thực vừa giàu chất thơ, ngôn ngữ giọng điệu linh hoạt cùng với tấm lòng yêu thương bao la và đồng cảm cho những số phận bất hạnh, Tô Hoài đã khắc họa thật rõ nét và chân thực ước mơ, khát vọng của Mị cũng như sức sống tiềm tàng ẩn trong tâm hồn của nhân vật.
Cảm nhận về hai chi tiết:
- Chi tiết 1: Phản ánh cuộc sống khổ cực, tù đọng của Mị nói riêng và của người lao động nghèo miền núi nói chung. Họ bị ràng buộc và bị đối xử bất công bởi những hủ tục lạc hậu còn nặng nề. Ô cửa sổ vuông che kín nắng, ánh sáng chiếu vào phòng cũng tựa như căn lầu khóa kín tuổi xuân của Kiều. Mị sống trong căn buồng tối, quên mất mình là người, tưởng mình lùi lũi như con rùa. Chẳng biết là sống hay chết, mơ hay thức. Thời gian bị xóa nhòa, không gian bị bó hẹp đã đẩy nỗi khổ đau của con người lên đến cùng cực. Chi tiết này vừa cho thấy lòng đồng cảm, xót thương của Tô Hoài với đời Mị, vừa thể hiện sự phê phán, tố cáo xã hội tù đọng giam giữ, chà đạp con người.
- Chi tiết 2: Mị có hành động phá bóng tối. Giống như chị Dậu "chạy phá bóng tối, tối đen như cái tiền đồ của chị". Mị cũng vậy, thấy cần phải vùng dậy đấu tranh nhưng chỉ là hành động tự phát bởi vậy bước chân phá bóng tối còn chưa chắc chắn. Nhưng nhờ có A Phủ và những ánh sáng Cách mạng của Đảng nên con đường Mị đi thực sự đúng đắn.
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi. Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo.
• Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam, là nhà văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập quán của những miền đất mà ông đã đi qua. Ông có giọng văn kể chuyện hóm hỉnh, rất có duyên và đầy sức hấp dẫn; có vốn ngôn ngữ bình dân phong phú và sử dụng nó rất linh hoạt, đắc địa.
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc – tập truyện được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, viết về dân tộc Thái; Cứu đất cứu mường, viết về dân tộc Mường; Vợ chồng A Phủ, viết về dân tộc Mèo (Mông) – mỗi truyện có một dáng vẻ, sức hấp dẫn riêng, nhưng đọng lại lâu bền trong kí ức của nhiều người đọc là truyện Vợ chồng A Phủ.
• Giới thiệu nhân vật
- Nhan sắc: “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” -> nhan sắc rực rỡ ở tuổi cập kê.
- Tài năng: thổi sáo, thổi lá. Hay đến mức có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
- Phẩm chất tốt đẹp: Khi bố mẹ Mị hết đời chưa trả được món nợ cho thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra định bắt Mị về làm con dâu gạt nợ:
+ Hiếu thảo:“ Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”
+ Tự tin vào khả năng lao động: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô”
+ Khao khát tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”
-> Xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị xã hội của tiền quyền, cường quyền và thần quyền vùi dập, đẩy vào ngã rẽ tăm tối.
• Phân tích hình ảnh Mị trong hai lần trên
Chi tiết 1:
*Vị trí chi tiết: Chi tiết nằm ở phần đầu tác phẩm, khi Mị đã quen dần với việc làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Vì món nợ truyền kiếp của gia đình và tục bắt vợ mà Mị đã trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Khi mới về làm dâu, Mị cũng đã phản kháng, muốn tự tử nhưng lâu dần ý thức đó bị mất đi.
*Phân tích chi tiết:
- Khi làm dâu đã quen, ý thức phản kháng trong Mị bị vùi lấp đi: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” => chấp nhận thân phận con dâu gạt nợ.
- Nỗi khổ thể xác:
+ Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa; thậm chí còn không bằng con trâu con ngựa.
+ Mị mất hoàn toàn ý niệm về thời gian. Thời gian của Mị chỉ được tính bằng công việc, các công việc nối tiếp nhau, việc này chồng lên việc kia. Mị trở thành cỗ máy, công cụ lao động, mất hết ý niệm về cuộc sống.
- Nỗi khổ tinh thần:
+ Biện pháp so sánh: Mị - con trâu, con ngựa -> vật hóa nặng nề.
+ Thể hiện qua những câu văn tả thực trầm buồn mở đầu tác phẩm: “Ai cố việc ở xa về…”, “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
+ Hình ảnh ẩn dụ: căn buồng Mị ở “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng” -> giống như ngục thất giam cầm cuộc đời Mị, giống như nấm mồ chôn vùi tuổi thanh xuân, chôn vùi hạnh phúc của Mị.
Chi tiết 2:
*Vị trí: Chi tiết nằm ở phần giữa tác phẩm – Mị trong đêm tình mùa xuân. Trong đêm tình mùa xuân, với sự tác động của khung cảnh ngày xuân, tiếng sáo và hơi rượu, sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy.
*Phân tích chi tiết:
Trong hơi rượu và tiếng sáo sức sống tiềm tàng lại trỗi dậy:
- Mị như ở trạng thái mộng du, vượt thoát hoàn cảnh để tìm lại chính mình.
+ Lấy ống mỡ sắn một miếng để thắp đèn lên cho sáng. -> thắp sáng căn buồng cũng là thắp sáng khát vọng giải thoát cuộc đời mình.
+ “Mị muốn đi chơi”: thức dậy ý thức và khát vọng.
+ Chuẩn bị đi chơi: quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo.
=> Khao khát được sống, được giao tiếp của Mị đã hồi sinh sau chuỗi ngày bị vật hóa nặng nề.
• Giá trị của hai chi tiết
- Cho thấy đầy đủ chân dung nhân vật Mị - một cô gái miền núi với khao khát tự do mãnh liệt
- Góp phần truyền tải đầy đủ tư tưởng, nội dung của tác phẩm mà tác giả muốn gửi gắm:
+ Giá trị hiện thực : Phơi bày thực trạng xã hội phong kiến miền núi lúc bấy giờ.
+ Giá trị nhân đạo:
++ Bày tỏ sự đồng cảm, xót thương cho những số phận dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi.
++ Lên án, phê phán những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người.
++ Tin tưởng vào bản chất người luôn tiềm tàng trong mỗi con người: khát vọng sống mãnh liệt.
• Tổng kết
Đây là dàn bài chi tiết chị đã soạn trước đấy em có thể tham khảo dựa vào bài dưới đây. Tuy nhiên, đây chỉ là 1 dàn bài tương đối đầy đủ nhất để em tự viết. ( Nên tự triển khai để nhớ kiến thức nhé).
A. Mở bài: Tự viết
B. Thân bài:
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm:
Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn viết hay nhất về đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc đồng thời cũng là cây bút tiên phong trong việc khai hoang mảng hiện thực bị bỏ quên trong văn xuôi, đó là hiện thực cuộc sống và số phận con người....
Vợ chồng A Phủ là 1 trong những tác phẩm hay nhất viết về tài miền núi, cũng là 1 trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong đời văn của Tô Hoài. Tác phẩm được in trong tập " Truyện Tây Bắc" được giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Ông viết " VCAP" như 1 cách để trả ơn sâu nặng cho đồng bào nơi đây. Trải qua 2 chặng đường của Mị và A Phủ, nhà văn đã phản ánh số phận khổ đau của người lao động miền núi dưới chế độ thực dân phong kiến chúa đất, chúa mường vùng cao cũng như sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của họ.
2. Khái quát nhân vật Mị.
- Mị là cô gái H’mông xinh đẹp, thùy mị, nết na, yêu đời và vui sống. Ở tuổi đôi mươi Mị đẹp như một bông hoa ban, hoa đào giữa núi rừng Tây Bắc. Mị thổi kèn lá hay như thổi sáo “ có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị” Tâm hồn của cô gái ấy nhạy cảm, dễ rung động trước cái đẹp của thiên nhiên nơi núi rừng, bản làng của tình yêu, tình người đang nảy nở.
- Mị có một tình yêu, một tâm hồn thiếu nữ tài hoa, xinh đẹp đang rộng mở để đón nhận những hương hoa của cuộc đời. Vào đêm mùa xuân năm ấy, Mị đã bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ cho nhà thống Lí. Nguyên do bắt nguồn từ món nợ truyền kiếp mà bố mẹ để lại.
3. Phân tích :
a. Khung cảnh mùa xuân ( mặc dù trong đoạn văn không có đưa đoạn trích ra nhưng phải có khái lược )
- Năm ấy, mùa xuân về sớm hơn mọi năm, ở Hồng Ngày có tục lệ gặt lái xong là ăn tết mà không có phụ thuộc vào thời gian. Hồng ngày năm ấy đón tết lúc " gió và rét rất dữ dội". Kết hợp với các màu sắc rực rỡ " cỏ gianh vàng ửng" ; những ruộng bí đỏ, những chiếc váy hoa trên bản làng Mèo Đỏ " xòe như con bướm rực rỡ" xua tan không khí giá lạnh của vùng cao Tây Bắc. Đón tết lúc gặt hái xong nên ngày tết có sự no đủ khi " ngô lúa đầy nhà kho", con người thảnh thơi. Kết hợp với các âm thanh tiếng cười trẻ con đợi tết, đám thanh niên mặc váy áo mới, xòe ô, dắt ngựa đi đánh quay, ném pao....
b. Phân tích đoạn trích trên:
- Tiếng sáo lấp ló đầu núi: sử dụng từ láy " lấp ló" để miêu tả bóng dáng của người thổi sáo gợi âm thanh tiếng sáo từ xa vọng lại lúc mờ lúc tỏ...
- Ý nghĩa của tiếng sáo: đó là biểu tượng của sự tự do, hạnh phúc của tình yêu.Từ láy " văng vẳng" không chỉ miêu tả tiếng sáo của hiện tại mà còn là âm thanh của ký ức, của hoài niệm đưa Mị trẻ về những tháng ngày tự do của tuổi trẻ hạnh phúc.
-Mị ngồi " Nhẩm thầm" lời bài hát kết hợp với tiếng sáo ==> chứng tỏ là trước đó Mị đã thuộc kể từ khi còn ở với cha ==> đó là những năm tháng tự do của cuộc đời Mị.
- Nếu trước đây Mị tuyệt giao với thế giới bên ngoài, đào sâu chôn chặt quãng đời thiếu nữ sống lùi lũi như 1 con rùa thì giờ đây Mị đã bước qua ranh giới câm lặng của kiếp vật để trở vào thế giới của con người.
- Trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày tết, " Mị cũng uống rượu...cứ uống ực từng bát". Sau bao tháng ngày đau đớn, tủi nhục, giờ là lúc Mị được sống lại với chính con người mình. Mị uống như để quên đi cái phần đời cay đắng vừa qua, như để sống lại mạnh mẽ cái phần đời tươi trẻ đã có.
- " ực " là từ mô phỏng âm thanh, cách uống nhanh, uống nhiều . uống từng ngụm lớn. Đây không phải là cách uống nhâm nhi, thưởng thức chén rượu đầu xuân.
- Lời hát kết hợp với men rượu như cánh diều gặp gó đưa Mị bay về với những kỉ niệm của ngày trước. Đó là những tháng ngày tươi đẹp,hạnh phúc và đầy kiêu hãnh của tuổi trẻ. " Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi..." ==> Tình trạng sống mà như đã chết ở hiện tại được bởi bỏ. Quá khứ tươi đẹp tưởng như đã bị vùi chôn dưới lớp tro tàn nguội lại , nay đã " bùng cháy"/
- Nguồn sinh khí được tiếp lấy từ những ngày tháng tự do, hạnh phúc đã qua giống như trận mưa tưới tắm đến đâu làm tươi tốt đến đấy. Có lẽ vì thế mà Mị " thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước" ==> để rồi sau những tháng ngày mất ý niệm về không gian, thời gian, bản thân, Mị cảm thấy mình " trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ" và Mị " muốn được đi chơi".
* HÀNH ĐỘNG BƯỚC VÀO BUỒNG:
- Hình ảnh lỗ vuông mờ mờ được 1 lần nữa được lặp lại...
- Câu trần thuật " rượu tan lúc nào...mà từ từ bước vào buồng" ==> những câu văn chậm rãi như nhịp điệu mỏi mòn,tê dại gợi tả hình ảnh Mị như chiếc bóng câm lặng vật vờ trong đêm.
- " Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết" nên Mị ở nhà như một thói quen, quán tính....
- Như 1 lẽ tự nhiên, khi ý thức sống đã trỗi dậy thì cũng là lúc Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại. Nếu trước đây Mị " quen khổ" đến mức chai sạn, không còn tưởng đến việc ăn lá ngón tự tử thì giờ đây " nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay không buồn nhớ lại nữa" ==> Đây là biểu hiện của sự phản khác với hoàn cảnh giữa 1 bên là sự khát vọng 1 bên là thực tại đáng chán vẫn đang hiện hữu.
* Chi tiết tiếng sáo lửng lơ được khép lại ở đoạn trích như đang cứu rỗi linh hồn Mị, đang tiếp đà hồi sinh mạnh mẽ trong Mị " tiếng gọi bạn yêu vẫn lơ lửng..." Câu văn miêu tả tiếng sáo có chữ " mà" đứng ở đầu cầu. Chữ " mà" diễn đạt tự do tình yêu như 1 điều tất yếu nó tha thiết lay tỉnh và thức dậy quá quá khứ tươi đẹp để náo nức trong lòng Mị.
* Hồi tưởng quá khứ: Không khí mùa xuân ở bản làng Hồng Ngày và hơi men rượu tiếp tục là tác nhân tác động hiếm hoi đã len lỏi vào tâm hồn khô cằn của Mị .
c. tóm tắt sơ lược phần cuối: tiếng sáo làm Mị ý thức được bi kịch của mình ==> đánh thức mình bằng khát vọng tự do ==> Mị đứng dậy chuẩn bị váy , quấn lại tóc sửa soạn đi chơi ==> đó là ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị.
Nhận xét về cách nhìn mới mẻ của nhà văn: ( gợi ý)
+ So sánh với các nhà văn viết về người nông dân như Nam Cao ==> nhà văn để cho nhân vật chết để giải thoát cho chính mình
+ Còn đối với Tô Hoài ông để sức sống tiềm tàng trong nhân vật được trỗi dậy để bừng lên sức sống và tìm được lối thoát cho mình.
+ Nhà văn phát hiện ra bản chất, khao khát sống của con người.