Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Sơ cứu chỉ là tạm thời, ngay sau khi sơ cứu phải đưa đến bệnh viện.
+ Dò tìm vị trí động mạch phía trên vết thương (về phía gần tim).
+ Dùng ngón tay ấn mạnh vào để cầm máu tạm thời. Với vết thương ở tay chân có thể dùng biện pháp buộc dây garô ở phía trên vết thương (cứ 15 phút lại nới dây garô).
+ Sát trùng vết thương. Băng kín vết thương.
+ Đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu.
*các bước sơ cứu khi bị chảy máu động mạch (vết thương ở cổ tay hoặc cổ chân):
-dùng ngón tay cái dò tìm và ấn động mạch làm ngừng chảy máu ở vết thương vài ba phút.
- buộc garo: dùng dây cao su hay dây vải mềm buộc chặt vào vị trí gần sát nhưng cao hơn vết thương (về phía tim), với lực ép đủ làm cầm máu.
- sát trùng vết thương (nếu có điều kiện).
- đưa bệnh nhân đến bệnh viện ngay.
Tham khảo!
Sơ cứu các vết thương:
* Mao mạch: Tổn thương mạch máu nhỏ, có thể tự cầm máu ở nhà mà không cần đến bệnh viện.
+ Dùng ngón tay cái bịt chặt miệng vết thương tới khi máu ngừng chảy.
+ Sát trùng vết thương bằng cồn.
+ Băng kín vết thương bằng băng băng dán.
* Tĩnh mạch: Nếu tổn thương mạch lớn và sâu, sau khi sơ cứu cầm máu có thể đưa đến bệnh viện.
+ Dùng ngón tay cái bịt chặt miệng vết thương tới khi máu ngừng chảy hoặc garo nếu vết thương lớn
+ Sát trùng vết thương bằng cồn.
+ Băng kín vết thương bằng gạc.
+ Nếu máu chưa cầm hay tổn thương mạch máu lớn, cần đưa đến bệnh viện để xử trí.
TK
Để cầm máu chúng ta có thể áp dụng một hay nhiều biện pháp sau đây:Ấn động mạch. Dùng ngón tay ấn đè chặt vào động mạch đoạn trên vết thương tính từ tim đến vết thương. ...Gấp chi tối đa. ...Băng ép. ...Băng chèn. ...Băng đút nút. ...Dùng kẹp để kẹp mạch máu. ...Khâu mép vết thương. ...Đặt garôTham khảo
Dùng ngón tay cái dò tìm vị trí động mạch ở cánh tay ,khi thấy dấu hiệu mạch đập rõ thì bóp mạnh để làm ngừng chảy máu ở vết thương vài ba phút
Buộc garoo :dùng dây cao su hay dây vải mềm buộc chặt ở vị trí gần sát nhưng cao hơn về phía tim,với lực ép đủ làm cầm máu(cứ 15 phút thì nới dây garoo ra và buộc lại)
Sát trùng vết thương(nếu có điều kiện) đặt gạc và bông lên miệng vết thương và băng lại
Đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu
Tham khảo
- Các bước sơ cứu
+ Nếu người sơ cứu có kiến thức cấp cứu vết thương thì một mặt cho băng chặt vết thương, mặt khác lấy ngón tay ấn chặn vào phía trên đường đi của động mạch (phía trên vết thương đó).
+ Nếu người sơ cứu không biết nghiệp vụ cấp cứu vết thương thì cần băng chặt vết thương để cầm máu tạm thời sau đó nhanh chóng đưa nạn nhân đến bệnh viện gần nhất.
Khi gặp nạn nhân bị vết thương mạch máu, bạn cần nhanh chóng sơ cứu để cứu sống nạn nhân bằng cách: đặt garô, băng ép, ép mạch máu. Cách làm các thủ thuật đó như sau: Đặt garô là phương pháp cầm máu tốt nhưng đòi hỏi thực hiện đúng các quy tắc sau: Đặt chỗ dễ nhìn thấy nhất, gần vết thương nhất, ưu tiên chuyển nạn nhân đến bệnh viện trước kèm theo phiếu ghi giờ đặt garô.
Trong quá trình đặt garô, cứ một giờ nới lỏng garô trong vài phút cho máu chảy xuống nuôi dưỡng phần dưới chỗ bị thương, sau đó lại tiếp tục siết garô khi máu bắt đầu chảy trở lại.
Khi tháo garô để điều trị thực thụ phải chuẩn bị sẵn phương tiện để cầm máu và hồi sức. Chỉ đặt garô trong các trường hợp sau đây: chi bị dập nát không còn khả năng bảo tồn; đặt garô ở nơi xảy ra tai nạn, nhưng gần một bệnh viện, thời gian vận chuyển bệnh nhân đến bệnh viện dưới một giờ; đặt tạm thời trong một thời gian ngắn để chuẩn bị mổ.
– Băng ép cầm máu: Dùng một cuộn băng hay một chiếc khăn gấp nhỏ lại thành một cục đặt lên vết thương và băng ép lên trên để cầm máu, dùng băng cuộn băng chặt quanh chi cho đến khi không thấy máu thấm băng. Băng ép cầm máu tốt nhất là dùng loại băng chun. Phương pháp này đơn giản dễ thực hiện, có tác dụng cầm máu tốt lại không gây hậu quả xấu đối với vùng bị tổn thương.
– Dùng ngón tay ép lên mạch máu: Bạn dùng ngón tay ép lên đường đi của mạch máu phía trên (gần tim hơn vết thương) vào nền xương. Vị trí thường được dùng để ấn mạch: ở chi trên là sau xương đòn, nếu chảy máu của động mạch dưới đòn ở vùng vai, cánh tay. Tại hõm nạch, nếu chảy máu của động mạch nách và động mạch cánh tay, ở vùng cánh tay.
Tại bờ trong cơ nhị đầu, ở nếp gấp khuỷu, nếu chảy máu của động mạch quay và động mạch trụ, ở vùng cẳng tay. Chi dưới: điểm giữa nếp bẹn, nếu chảy máu của động mạch đùi do vết thương ở dưới đùi. Tại hõm khoeo, nếu chảy máu của động mạch vùng cẳng chân…
Ngoài ra, bạn có thể gấp khuỷu tay hay đầu gối tối đa và ép vào thân để cầm máu, biện pháp này áp dụng khi chưa có điều kiện băng ép hoặc đặt garô. Dùng kẹp cầm máu kẹp các mạch máu. Sơ bộ chống choáng: bằng cách ủ ấm cho nạn nhân, cho nạn nhân uống thuốc trợ tim, giảm đau.
Điều trị ở bệnh viện gồm: Hồi sức tích cực, trường hợp mất máu nhanh và nhiều phải vừa truyền máu vừa mổ để cầm máu. Dùng kháng sinh chống nhiễm khuẩn và tiêm phòng uốn ván.
Tại chỗ: mở rộng vết thương để tìm đầu mạch máu bị đứt thắt lại, cắt lọc sạch những tổ chức dập nát ở phần mềm, lấy dị vật, máu tụ, loại bỏ các ngóc ngách của vết thương. Áp dụng một trong những cách cầm máu vĩnh viễn như: thắt các đầu mạch máu bị đứt ở ngay vết thương; thắt mạch máu ở xa vết thương; ghép mạch máu; cắt cụt chi.
Những thông tin cung cấp trong bài viết của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.
- Dùng ngón tay cái bịt chặt miệng vết thương tới khi máu ngừng chảy.
- Sát trùng vết thương bằng cồn.
- Băng kín vết thương (có thể dùng băng dán với vết thương nhỏ và gạc với vết thương lớn).
Sau khi băng nếu thấy vẫn chảy máu, cần đưa đến bệnh viện cấp cứu.
Bước 1: dùng ngón tay cái bịt chặt miệng vết thương trong vài phút ( cho đến khi thấy máu không chảy ra nữa.)
Bước 2: Sát trùng vết thương bằng cồn i-ốt.
Bước 3:
- Khi vết thương nhỏ có thể dùng băng dán.
- Khi vết thương lớn cho miếng bông vào giữa hai miếng gạt rồi đặt nó vào miệng vết thương và dùng băng buộc chặt lại.
Câu 1:
Trong huyết tương có một loại prôtêin hòa tan gọi là chất sinh tơ máu. Khi va cham vào vết rách trên thành mạch máu của vết thương, các tiểu cầu bị vỡ và giải phóng enzim. Enzim này làm chất sinh tơ máu biến thành tơ máu. Tơ máu kết thành mạng lưới ôm giữ các tế bào máu và tạo thành khối máu đông.
Câu 2:
ý nghĩa của sự đông máu trước hết là:
-giúp cơ thể ko bị mất máu nhiều.
-giúp cơ thể tự bảo vệ khi bị thương.
-tránh cho vi khuẩn và vi rút xâm nhập vào vết thương.
Tham khảo
Chảy máu tĩnh mạch và động mạch có gì khác nhau về biểu hiện và cách xử lí?
Trả lời:
+ Chảy máu ở tĩnh mạch: chảy chậm, ít. Có thể sơ cứu tại chỗ bằng băng dán hay gạc (nếu vết thương sâu thì nên đến bệnh viện).
+ Chảy máu ở động mạch: chảy mạnh do vận tốc máu trong mạch lớn, chảy thành tia gây nguy hiểm, cần sơ cứu tạm thời và đưa ngay đến bệnh viện.
- Những yêu cầu cơ bản của biện pháp buộc dây garô là gì? Vì sao chỉ những vết thương chảy máu động mạch ở tay hoặc chân mới dùng biện pháp buộc dây garô?
Trả lời:
+ Những yêu cầu cơ bản của biện pháp buộc dây garô:
• Trước khi đặt garo nên dùng vải quấn quanh da vùng định thắt để tránh xoắn và kẹt da phía dưới dây thắt.
• Khi đặt vòng garo đầu tiên phải chặt nhất sau đó lực thắt giảm dần. Các vòng garo nằm cạnh nhau sao cho ko bị xoắn kẹp, đầu dây garo phải được cố định lại.
• Trường hợp đặt garo đúng máu nhanh chóng ngừng chảy, chỉ trắng nhợt, phía dưới chỗ đặt garo mạch ko còn đập.
• Nếu thắt garô quá chặt có thể gây dập nát tổ chức phần mềm, và cũng là nguyên nhân gây liệt chi.
• Nếu đặt garo ko đủ chặt máu tiếp tục chảy, đồng thời ứ tắc tĩnh mạch (chỉ có thể tím thẫm).
• Ko được phép để garo lâu quá 1,5 - 2h, nếu lâu quá phần dưới garo sẽ bị hoại tử. Vì vậy khi đặt garo nhất thiết phải ghi giờ vào 1 tờ giấy và đặt tờ giấy vào chỗ đặt garo, cứ 1h nới lỏng garo 1 lần, nới từ từ mỗi lần khoảng 30 giây.
• Chuyển bệnh nhân tới bệnh viện nhanh nhất có thể.
+ Những vết thương chảy máu động mạch ở tay hoặc ở chân mới dùng biện pháp buộc day garô vì tay và chân là những mô đặc nên biện pháp buộc dây garô mới có hiệu quả cầm máu.
- Những vết thương chảy máu động mạch không phải ở tay (chân) phải xử lí thế nào?
Trả lời:
+ Ở những vị trí khác, biện pháp garô vừa không có hiệu quả cầm máu (Ví dụ: vết thương ở bẹn, ở bụng) do buộc garô sẽ không chắc chắn, vừa có thể gây ra nguy hiểm tính mạng (ví dụ: vết thương ở đầu, mặt, cổ). Do não sẽ bị thiếu O2 mà não chỉ cần thiếu O2 khoảng ¾ phút đã có thể bị tổn thương tới mức không thể hồi phục.
+ Nếu người sơ cứu có kiến thức cấp cứu vết thương thì một mặt cho băng chặt vết thương, mặt khác lấy ngón tay ấn chặn vào phía trên đường đi của động mạch (phía trên vết thương đó).
+ Nếu người sơ cứu không biết nghiệp vụ cấp cứu vết thương thì cần băng chặt vết thương để cầm máu tạm thời sau đó nhanh chóng đưa nạn nhân đến bệnh viện gần nhất.
2. Kĩ năng:
Bảng 19. Các kỹ năng sơ cứu vết thương chảy máu
Các kĩ năng được học | Các thao tác | Ghi chú |
1. Sơ cứu vết thương chảy máu mao mạch và tĩnh mạch | - Dùng ngón tay cái bịt chặt miệng vết thương tới khi máu ngừng chảy. - Sát trùng vết thương bằng cồn. - Băng kín vết thương (có thể dùng băng dán với vết thương nhỏ và gạc với vết thương lớn). | Sau khi băng nếu thấy vẫn chảy máu, cần đưa đến bệnh viện cấp cứu. |
2. Sơ cứu vết thương chảy máu động mạch | - Dò tìm vị trí động mạch phía trên vết thương (về phía gần tim). - Dùng ngón tay ấn mạnh vào để cầm máu tạm thời. Với vết thương ở tay chân có thể dùng biện pháp buộc dây garô ở phía trên vết thương (cứ 15 phút lại nới dây garô). - Sát trùng vết thương. Băng kín vết thương. - Đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu. | Trên khăn buộc garô cần ghi chú thời gian bắt đầu buộc garô và những khoảng cách thời gian nới garô trên đường đến bệnh viện. |
Tham khảo:
* Phân loại các dạng chảy máu:
-Chảy máu mao mạch : Lượng máu chảy ít, máu đỏ tươi, vết thương tự lành sau một thời gian ngắn
-Chảy máu tĩnh mạch vừa và nhỏ : Máu chảy rỉ rỉ, không thành tia, cục máu hình thành nhanh chóng và bít các mạch tổn thương lại, máu đỏ xẫm. Còn đối vơi tĩnh mạch lớn : vẫn gây chảy máu ồ ạt, nguy hiểm đến tính mạng
-Chảy máu động mạch : Máu chảy vọt thành tia hoặc chảy ra từ miệng vết thương như mạch nước phun từ đáy giếng lên, máu đỏ tươi, lượng máu có thể vừa lơn tùy theo động mạch bị tổn thương
Băng épDùng băng với các vòng băng siết tương đối chặt, đè ép mạnh vào các bộ phận bị tổn thương, tạo điều kiện cho việc hình thành cục máu đông để cầm máu. Biện pháp này thích hợp với các vết thương không có thương tổn mạch máu lớn.
Ấn động mạchDùng ngón tay ấn, đè chặt vào động mạch đoạn trên vết thương tính từ tim đến vết thương. Có thể dùng ngón tay hoặc cả nắm tay để ấn động mạch, tùy theo mức độ tổn thương và vị trí ấn.
Gấp chiGấp chi tối đa, khi chi bị gấp, động mạch cũng bị gấp và các khối cơ bao quanh đè ép vào động mạch làm cho máu ngừng chảy, những biện pháp gấp chi tối đa chỉ được áp dụng để cầm máu đối với những vết thương không có gãy xương kèm theo.
Băng đút nútLà cách băng ép có dùng thêm bấc gạc để nhét nút vào vết thương. Biện pháp này thích hợp với các vết thương chảy máu động mạch ở sâu, giữa các kẽ xương, vết thương vùng cổ, vùng chậu.
Đặt ga rôLà biện pháp cầm máu bằng dây cao su hoặc dây vải xoắn chặt vào đoạn chi. Các trường hợp cần thiết đặt ga rô: vết thương cụt chi, chi bị đứt gần lìa, chi bị dập nát quá nhiều, khi bị rắn độc cắn…
- Dò tìm vị trí động mạch phía trên vết thương (về phía gần tim).
- Dùng ngón tay ấn mạnh vào để cầm máu tạm thời. Với vết thương ở tay chân có thể dùng biện pháp buộc dây garô ở phía trên vết thương (cứ 15 phút lại nới dây garô).
- Sát trùng vết thương. Băng kín vết thương.
- Đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu.
Ghi chú:Trên khăn buộc garô cần ghi chú thời gian bắt đầu buộc garô và những khoảng cách thời gian nới garô trên đường đến bệnh viện.