Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Arnh hưởng xấu của hiệu ứng nhà kính sẽ làm cho trái đất nóng lên ...
+Nhiệt độ trái đất tăng sẽ làm băng tan chảy và mực nước biển dâng cao. Điều này có thể khiến nhiều vùng sản xuất lương thực trù phú, các khu đông dân cư, các đồng bằng lớn, nhiều đảo thấp sẽ bị chìm dưới lòng đại dương.
+Sự nóng lên của trái đất sẽ làm thay đổi điều kiện sống bình thường của các sinh vật, nhiều loai vật có thể bị tiêu diệt.
+Cháy rừng triền miên ảnh hưởng đến đời sống của sinh vật
+Khí hậu trái đât sẽ bị biến đổi sâu sắc ,các đới khí hậu có xu hướng thay đổi .Toàn bộ đk sống của tất cả các quốc gia sẽ bị xáo động .Hoạt động sản xuất ,nông nghiệp ,lâm nghiệp ,thủy sản bị ảnh hưởng nghiệm trọng
+Trái đất nóng lên cũng khiến cho hoạt động sản xuất bị ảnh hưởng, nhiều loại bệnh tật mới sẽ xuất hiện, dịch bệnh lan tràn, sức khỏe con người bị suy giảm…
Hành chính nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Hành chính nhà nước được hiểu trước hết là hoạt động thực thi quyền hành pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước, tức là quyền thực thi pháp luật có tính cưỡng bức đối với xã hội. Thông qua hoạt động hành chính nhà nước, các quy phạm pháp luật đi vào đời sông xã hội, điều chỉnh, duy trì trật tự của xã hội theo định hướng mong muốn của nhà nước. Bên cạnh đó, bộ máy hành chính nhà nước còn đảm bảo cung cấp các dịch vụ công thiết yếu phục vụ cho sự phát triển của cộng đồng và xã hội. Thiếu những dịch vụ này, đời sống của người dân không được đảm bảo, sự phát triển của xã hội không được duy trì và do đó có thể làm lung lay vai trò thống trị của giai cấp thống trị.
Tầm quan trọng của hành chính nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:
Hành chính nhà nước góp phần quan trọng ừong việc hiện thực hoá các mục tiêu,, ý tưởng, chủ trương, đường lối chính trị của đảng cầm quyền trong xã hội.
Hành chính nhà nước giữ vai trò định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế - xã hội theo một định hướng thống nhất thông qua hệ thống pháp luật và hệ thống chính sách của nhà nước.
Hành chính nhà nước giữ vai ữò điều hành xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo những định hướng thống nhất.
Hành chính nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, kích thích phát triển, duy trì và thúc đẩy sự phát triển của xã hội: củng cố và phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, can thiệp vào sự phát triển xã hội qua hệ thống chính sách.
Ngoài ra, hành chính nhà nước còn giữ vai trò trọng tài, giải quyết các mâu thuẫn ở tầm vĩ mô.
Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có rất nhiều khởi sắc. Mạng lưới, quy mô trường lớp được củng cố, phát triển đáp ứng được nhu cầu học tập của con em đồng bào người dân tộc thiểu số, miền núi.
Mạng lưới trường lớp từ mầm non đến trung học phổ thông ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta được củng cố và phát triển. Các thôn, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới đã có lớp mầm non, tiểu học; 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở, trung tâm cụm xã, các huyện đều có trường trung học phổ thông; nhiều trường mầm non, phổ thông đã đạt chuẩn quốc gia. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường Phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) và trường dự bị đại học (DBĐH) ngày càng phát huy vai trò tích cực, cơ bản đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn cán bộ người DTTS cho các địa phương vùng DTTS, vùng miền núi.
Từ các chương trình, dự án của nhà nước kết hợp với sự đầu tư của các địa phương, đến nay, các địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đã xóa bỏ được hầu hết các phòng học 3 ca, phòng học tạm; tạo điều kiện cho hàng triệu học sinh được ngồi học trong các phòng học kiên cố và giải quyết chỗ ở cho hàng vạn giáo viên (đặc biệt các tỉnh miền núi phía Bắc, các huyện miền núi ở các tỉnh miền Trung, các tỉnh Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long). Cơ sở vật chất, thiết bị trường học phục vụ hoạt động dạy và học của các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi được quan tâm đầu tư, góp phần ổn định và phát triển quy mô giáo dục, tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục phấn đấu đạt chuẩn quốc gia và hoàn thiện dần mạng lưới cơ sở giáo dục ở các địa phương, từng bước nâng cao quy mô mạng lưới và chất lượng giáo dục trong các trường chuyên biệt.
Hệ thống trường chuyên biệt vùng dân tộc thiểu số, miền núi được đầu tư, phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục
Hiện nay, toàn quốc có tổng số 316 trường phổ thông dân tộc nội trú ở 49 tỉnh/thành phố với tổng số 109.245 học sinh nội trú (tăng 22 trường PTDTNT, 28.422 học sinh nội trú so với năm học 2011-2012). Các trường phổ thông dân tộc nội trú đã tổ chức ứng dụng những kiến thức, kỹ năng về quản lý, giảng dạy, giáo dục học sinh được tiếp thu thông qua các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên trường chuyên biệt của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tổ chức tốt dạy học 2 buổi/ngày theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS, THPT. Tỷ lệ học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú xếp loại hạnh kiểm tốt, khá hằng năm đạt trên 95%. Tính trung bình, học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú có tỷ lệ học lực giỏi, khá là trên 60%, học lực trung bình trên: 30%, học lực yếu, kém khoảng 2,3%. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS của các trường phổ thông dân tộc nội trú hàng năm trên 97%; Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT của các trường phổ thông dân tộc nội trú đạt 90%. Có trên 10.000 học sinh tốt nghiệp THCS các trường phổ thông dân tộc nội trú; trong đó, khoảng 30% số học sinh được tiếp tục vào học cấp THPT ở các trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, huyện và Trung ương, 60% vào các trường phổ thông công lập trên địa bàn, 10% vào học các trường trung cấp chuyên nghiệp, cơ sở dạy nghề và về địa phương tham gia công tác và lao động sản xuất. Trong số 6.000 học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú tốt nghiệp THPT hàng năm, có trên 50% học sinh thi đỗ thẳng vào đại học, cao đẳng, 5% được đi học cử tuyển, 13% vào dự bị đại học, khoảng 30% vào trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và về địa phương tham gia công tác, lao động sản xuất. Ngoài việc dạy học văn hóa, các nhà trường còn tổ chức các hoạt động giáo dục như: tổ chức nội trú, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe học sinh, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề... nhằm phát triển toàn diện về phẩm chất, năng lực học sinh dân tộc thiểu số.
Phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú: Toàn quốc hiện có 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú ở 28 tỉnh/thành phố (trong đó có 15% trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia) với quy mô 185.671 học sinh bán trú (tăng 970 trường PTDTBT, 172.441 HSBT so với năm học 2011-2012) . Ngoài ra, còn có 2.273 trường phổ thông ở 29 tỉnh/thành phố với quy mô 161.241 học sinh bán trú. Hiện nay, các địa phương vùng dân tộc thiểu số, miền núi vẫn đang tiếp tục rà soát, quy hoạch để củng cố, phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú và trường phổ thông có học sinh bán trú. Các trường phổ thông dân tộc bán trú và trường phổ thông có học sinh bán trú thực hiện nội dung, chương trình giáo dục phổ thông theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, học 2 buổi/ngày, buổi tối thực hiện các hoạt động nội trú cùng với các nội dung giáo dục đặc thù theo chương trình kế hoạch riêng tùy vào điều kiện của mỗi nhà trường. Chất lượng giáo dục của trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông có học sinh bán trú có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học sinh bán trú cấp tiểu học hoàn thành cấp học đạt 98,9%, học sinh bán trú cấp THCS hoàn thành cấp học đạt 92%, tỷ lệ huy động học sinh dân tộc thiểu số trong độ tuổi ra lớp tăng, môi trường học tập ở trường phổ thông dân tộc bán trú đã giúp học sinh dân tộc thiểu số đi học chuyên cần tiếp cận nhanh hơn với tiếng Việt. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên rõ rệt, học sinh bỏ học giảm, góp phần quan trọng trong việc củng cố, duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS; nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới và hải đảo.
Việc tạo nguồn đào tạo sinh viên dân tộc thiểu số ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trong các trường dự bị đại học được nhà nước quan tâm: Cả nước có 4 trường DBĐH; 1 trường PTDTNT trực thuộc Bộ có đào tạo hệ DBĐH dân tộc (Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc) và 3 khoa DBĐH dân tộc thuộc các trường đại học (Trường Đại học Tây Nguyên, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Trà Vinh), với quy mô hơn 5.000 HS dự bị/năm. Theo đánh giá của các cơ sở đào tạo, đa số các sinh viên này học tập tốt, có thể đáp ứng các điều kiện của nhà trường như các thí sinh khác trúng tuyển vào trường. Đa số số sinh viên tốt nghiệp ra trường có việc làm, nhiều em đã trở thành cán bộ giỏi tại các địa phương.
Công tác giáo dục mũi nhọn, chăm lo phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số chất lượng cao đã được chú trọng và tăng cường. Nhiều tỉnh có nhiều học sinh là người dân tộc thiểu số đạt giải trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia và cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia. Đặc biệt ngày càng có nhiều học sinh thuộc các dân tộc thiểu số rất ít người đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông và học lên những cấp học cao hơn. Ở hầu hết các tỉnh, tỷ lệ học sinh là người dân tộc thiểu số đạt giải trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia, học sinh là người dân tộc thiểu số dưới 1.000 người tốt nghiệp trung học phổ thông; học sinh trúng tuyển vào các trường chuyên nghiệp đạt điểm cao đều tăng so với những năm học trước.
Việc dạy học tiếng nói, chữ viết dân tộc thiểu số, giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức địa phương nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc được chú trọng
Nhiều địa phương đã vận dụng sáng tạo giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức địa phương cho học sinh trong các trường học, như sưu tầm, biên soạn tài liệu giáo dục văn hóa dân tộc và tri thức địa phương đưa vào giảng dạy trong trường học. Việc dạy học tiếng nói, chữ viết dân tộc thiểu số được quan tâm, cả nước triển khai dạy và học 6 thứ tiếng dân tộc thiểu số: Mông, Chăm, Khơ Me, Gia Rai, Ba Na, Ê Đê, tại 22 tỉnh/thành phố, với quy mô 715 trường, 4.812 lớp, 113.231 học sinh. Việc dạy học tiếng nói, chữ viết DTTS đã góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và nâng cao chất lượng dạy học các môn văn hóa trong nhà trường.
Mở rộng và tăng cường các chế độ, chính sách hỗ trợ, nhất là đối với đối tượng trẻ em, học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, cán bộ quản lí, giáo viên ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
Nhiều chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS, vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa được ban hành đã quan tâm đến nhiều mặt và nhiều đối tượng (chính sách đối với trẻ em, học sinh, sinh viên; chính sách đối với cơ sở giáo dục; chính sách đối với nhà giáo...). Chế độ, chính sách được thực hiện đúng, đủ, kịp thời đóng vai trò quan trọng trong việc huy động trẻ em, HS, SV người DTTS đi học, không bỏ học giữa chừng, học hết cấp học và học lên cao hơn.
Ngoài các chính sách của Nhà nước có tính ổn định, còn có các Chương trình, Đề án, Dự án về phát triển giáo dục vùng khó khăn. Các tổ chức, cá nhân đều ưu tiên cho GDĐT vùng DTTS, miền núi,... Cơ sở vật chất trường lớp, các cấp học được quan tâm đầu tư xây dựng đảm bảo đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Tỷ lệ HS đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đời sống của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi không ngừng được nâng cao. Nhiều địa phương có HS, SV người DTTS có thêm các chính sách hỗ trợ học phí và chi phí học tập cho HS, SV của địa phương mình (Cao Bằng, Điện Biên, Quảng Trị, Gia Lai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đồng Nai, Đắk Nông,...).
Các chính sách tập trung quan tâm tới các đối tượng người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các đối tượng thiệt thòi khác đã thực sự đi vào cuộc sống, có ý nghĩa xã hội to lớn, góp phần quan trọng nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, giảm nghèo đối với vùng dân tộc thiểu số, miền núi.
Trong thời gian tới, để thúc đẩy phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi cần phải tiếp tục rà soát các chính sách đối với người dạy, người học và các cơ sở giáo dục vùng DTTS để đề xuất với Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan sửa đổi, bổ sung, ban hành mới chính sách phát triển giáo dục, đào tạo vùng dân tộc thiểu số, miền núi phù hợp với điều kiện, tình hình mới. Đồng thời tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí thực hiện tốt công tác tuyên truyền về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về giáo dục dân tộc. Trên cơ sở đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa phát triển giáo dục đào tạo vùng DTTS, miền núi.
1. Vai trò và Triển vọng của Trồng trọt:
Vai trò: Trồng trọt đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thực phẩm, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho dân số. Ngoài ra, nó còn đóng góp vào nền kinh tế, phát triển nông thôn và bảo vệ môi trường.Triển vọng: Trồng trọt không ngừng phát triển với sự ứng dụng của công nghệ và khoa học mới, nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.Một số nhóm cây trồng phổ biến ở Việt Nam: Lúa, ngô, đậu, cà phê, cacao, hồ tiêu, tiêu, cây ăn trái như cam, chanh, mãng cầu, xoài, dừa...
2. Phương thức trồng trọt phổ biến và Trồng trọt công nghệ cao:
Phương thức trồng trọt phổ biến: Trồng theo hàng, canh tác đồng ruộng, canh tác cây hàng năm, canh tác đa năng...Trồng trọt công nghệ cao: Sử dụng công nghệ, thiết bị hiện đại như tưới tiêu tự động, kiểm soát giống, sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hiệu quả.3. Các ngành nghề trong trồng trọt:
Chăm sóc cây trồng, nghiên cứu giống, kỹ thuật trồng trọt, quản lý nông nghiệp, chế biến nông sản.Mình thấy phù hợp với kỹ thuật trồng trọt vì mình thích làm việc ngoài trời, quan tâm đến cây trồng và muốn cải thiện năng suất nông sản.4. Mục đích và Yêu cầu kĩ thuật của công việc làm đất, bón phân lót:
Làm đất: Loại bỏ cỏ dại, tạo điều kiện tốt cho cây trồng phát triển, cải thiện cấu trúc đất.Bón phân lót: Cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.5. Quy trình kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc và phòng trừ sâu, bệnh cho cây trồng:
Gieo trồng: Chuẩn bị đất, chọn giống, gieo hạt, tưới nước.Chăm sóc: Tưới nước định kỳ, bón phân, xử lý sâu bệnh theo hướng dẫn kỹ thuật.Phòng trừ sâu bệnh: Sử dụng phương pháp hữu cơ, hóa học hoặc kỹ thuật sinh học để ngăn chặn sâu bệnh tấn công.6. Phương pháp thu hoạch sản phẩm trồng trọt ở gia đình/địa phương:
Thu hoạch bằng tay: Cắt kéo, hái lượm.Sử dụng máy móc: Máy gặt, máy thu hoạch.Ví dụ: Trong vụ mùa này, gia đình mình thu hoạch lúa bằng máy gặt, giúp tiết kiệm thời gian và công sức hơn.
Bài thuộc chủ đề môn Ngữ văn bạn vui lòng chuyển bài qua mục Môn Ngữ Văn nhé.
Dải đất Bình Thuận đằng sau những gian khó là hình ảnh những người mẹ cần cù, chịu khó, âm thầm hy sinh cho gia đình và xã hội. Những người mẹ ấy luôn chịu thương chịu khó, chẳng một lời kêu than, chỉ mong sao các con được ăn no mặc ấm, được học hành đầy đủ. Mẹ lúc nào cũng nghĩ cho gia đình trước mà chẳng nghĩ cho mình, sự êm ấm, no đủ ấy được đánh đổi bằng bao cực nhọc, khó khăn của những người phụ nữ vĩ đại.
vì y và x là 2 tỉ lệ nhuận
=> y=k.x =>k=y/x=6/2=3
vì k=3 =>y=3x (1)
thay x=5 vào (1)ta được y=3*5=15
thay x=8 vào (1) ta duoc y=3*8=24
vì y và x là 2 tỉ lệ nhuận
=> y=k.x =>k=y/x=6/2=3
vì k=3 =>y=3x (1)
thay x=5 vào (1)ta được y=3*5=15
thay x=8 vào (1) ta duoc y=3*8=24vì y và x là 2 tỉ lệ nhuận
=> y=k.x =>k=y/x=6/2=3
vì k=3 =>y=3x (1)
thay x=5 vào (1)ta được y=3*5=15
thay x=8 vào (1) ta duoc y=3*8=24