Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tác phẩm viết tay đầu tiên đã có công tập hợp lại những mẩu chuyện này là Tam quốc chí bình thoại (三国志评话), xuất bản vào khoảng giữa năm 1321 và 1323. Phiên bản này kết hợp các chủ đề mang tính thần thoại, huyền thoại và luân lý để thu hút các độc giả thuộc tầng lớp nông dân. Các yếu tố luân hồi và nghiệp chướng (karma) đã được trộn lẫn vào trong truyện. Những tội lỗi của vị hoàng đế sáng lập nhà Hán Hán Cao Tổ, người đã ra lệnh hành quyết một cách phi lý ba vị công thần là Hàn Tín, Bành Việt (彭越) và Anh Bố (英布), đã dẫn đến sự suy yếu của triều đại này. Do đó Hán Cao Tổ đã đầu thai thành hoàng đế cuối cùng nhà Hán là Hán Hiến Đế, và ba vị tướng được luân kiếp thành vua ba nước khác nhau: Hàn Tín hoá thành Tào Tháo; Bành Việt hoá thành Lưu Bị; và Anh Bố thành Tôn Quyền. Lần này hoàng đế nhà Hán phải chịu sự trừng phạt qua bàn tay Tào Tháo.
Tam quốc diễn nghĩa về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu dài của rất nhiều người.
- Trước La Quán Trung, từ lâu chuyện Tam quốc đã lưu hành rộng rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú thêm.
- Cuối đời Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa[3] chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của nhân dân quần chúng. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác (Tam quốc chí của Trần Thọ, Tam quốc chí chú của Bùi Tùng Chi), nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông.
- Một trong những bản Tam quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được là bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494), năm Nhâm Ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240 tiết. Từ đó về sau (gần 300 năm) nhiều bản Tam quốc đã lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì khác nhau lắm.
Truyện Tam quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:
- Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết "quá ư hoang đường".
- Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.
- Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.
- Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về nước Thục chống lại nước Ngụy trong toàn cuốn sách.
Nói tóm lại La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng.
- Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luân, Mao Tôn Cương (người Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679).
- Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng. Ông đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần, v.v... và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam quốc cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài tử". Làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó bản của Mao Tôn Cương thay bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.
- Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ từng câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi sửa chữa lại những chỗ mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của La Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn Cương. Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên chế độ... nếu cả hai bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu hết đều lấy theo bản in này.
Một trong những thành công lớn nhất của Tam Quốc diễn nghĩa là tính chất quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Bộ tiểu thuyết này có thể chia thành rất nhiều "truyện nhỏ" mà đa phần trong số đó có thể hoàn toàn dựng được thành những bộ phim truyện theo đúng nghĩa. Do vậy mà phần sau đây chỉ cố gắng tóm tắt hết sức sơ lược toàn bộ truyện theo những nét chính yếu mà không đi vào chi tiết nhân vật và sự kiện:
Triều đình tranh giành quyền lực[sửa | sửa mã nguồn]Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời Hán Linh Đế, năm 184, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Sau đó là sự xuất hiện của ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, cả ba người đều muốn dẹp loạn yên dân nên đã kết nghĩa với nhau ở vườn đào.
Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần đi trấn áp chẳng mấy chốc dập tắt cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà nhậm được chức đại tướng quân của triều đình. Sau khi Hán Linh Đế mất vàotháng 5 năm 189, Hà Tiến lập Hán Thiếu Đế kế vị. Điều đó khiến Đổng thái hậu (mẹ của Hán Linh Đế) không hài lòng. Hà Tiến phải đầu độc giết bà ta để trừ họa. Sau đó Hà Tiến lại có mâu thuẫn với bọn hoạn quan, đặc biệt là 2 hoạn quan Trương Nhượng và Kiển Thạc nên muốn giết sạch hết bọn chúng để có uy quyền tuyệt đối trong triều. Hà Tiến lấy chuyện này bàn với Viên Thiệu. Viên Thiệu khuyên Hà Tiến nên triệu tập các trấn khắp cả nước vào Lạc Dương diệt hoạn quan. Tiến phê chuẩn ngay, kêu gọi quân đội ở các trấn vào cung giết hoạn quan. Hành động này của Hà Tiến bị Tào Tháo phản đối và cho rằng ông là kẻ làm loạn thiên hạ. Bọn hoạn quan về sau cũng biết tin này, cũng lo đối phó trước. Tháng 8 năm 189, khi mà mưu đồ diệt hoạn quan của Hà Tiến chưa thành thì ông lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung Trường Lạc và giết chết. Liền sau đó các quan đại thần do Viên Thiệu cầm đầu đem quân vào cung giết sạch đám hoạn quan này, báo thù cho Hà Tiến.
Trong số các quan lại nhận lệnh Hà Tiến để diệt hoạn quan có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này vào kinh làm loạn triều đình. Năm 190, ông ta phế truất Hán Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình. Thứ sử Đinh Nguyên phản đối hành động này, hắn ỷ có tướng hầu là Lữ Bố hộ vệ nên không sợ bị Đổng Trác hãm hại. Tuy nhiên Đổng Trác lại dùng kế mua chuộc Lữ Bố, tặng cho Lữ Bố vàng bạc châu báu và con ngựa Xích Thố của mình. Lữ Bố nổi lòng tham, làm phản giết Đinh Nguyên ngay trong đêm hôm đó để quay về theo Đổng Trác.
Chiến tranh loạn lạc giữa mười quân phiệt (190-200)[sửa | sửa mã nguồn]Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu để diệt Đổng Trác. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi cũng đi theo liên quân diệt gian tặc. Lữ Bố thường xuyên được Đổng Trác sai đi trấn áp, có lần một mình Lữ Bố đấu với cả ba anh em Lưu, Quan, Trương nhưng sau đó cả 2 bên phải rút lui vì kiệt sức. Năm 191, liên quân Viên Thiệu đã tập trung dưới chân thành Lạc Dương. Nghe theo lời của mưu sĩ Lý Nho, Đổng Trác phải bắt hoàng đế, quan lại, xua hàng trăm vạn dân chúng từ Lạc Dương về Trường An lập kinh đô riêng, hắn còn sai Lữ Bố đào bới lăng mộ các vua nhà Hán trước đây để cướp vàng bạc châu báu, sau đó phóng hỏa thiêu cháy Lạc Dương rồi bỏ chạy. Liên quân của Viên Thiệu thừa cơ tiến vào Lạc Dương.
Trong thời kì Đổng Trác nắm quyền, vẫn còn nhiều trung thần như Vương Doãn đang tìm cách diệt trừ Trác. Một lần, Vương Doãn đã sử dụng liên hoàn kế, ban đầu tặng con gái của ông ta là Điêu Thuyền cho Lã Bố nhưng sau đó lại dâng cho Đổng Trác. Lữ Bố tức giận hỏi Vương Doãn tại sao lại làm vậy. Vương Doãn nói rằng phải dâng Điêu Thuyền cho Trác vì bị Trác ép buộc. Có lần Lữ Bố nhân lúc Đổng Trác đang cùng Hán Hiến Đế bàn chính sự, Lữ Bố lén tới điện Phượng Nghi để gặp Điêu Thuyền. Điêu Thuyền nghe lời Vương Doãn, đã nói khích vài câu để li gián Đổng Trác với Lữ Bố. Đổng Trác nghi ngờ, vội vã về phủ, thấy Lữ Bố đang ôm Điêu Thuyền, nổi giận ném long kích vào Lữ Bố. Lữ Bố đã may mắn tranh được. Từ đó Lữ Bố hận thù Đổng Trác, tuyên bố rằng sẽ giết Đổng Trác để trả thù. Cuối cùng năm 192, Đổng Trác bị giết bởi chính người con nuôi Lữ Bố, do cùng giành giật Điêu Thuyền. Thuộc hạ của Đổng Trác là Lý Nho cũng bị chém đầu.
Trong lúc đó, trong các quan lại trong liên quân chống Đổng Trác lại lục đục nội bộ với nhau, Tôn Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ truyền quốc. Viên Thiệu nghi ngờ, lệnh cho Lưu Biểu ở Kinh Châu đem quân đánh úp Tôn Kiên đang ở Giang Đông để đòi lại ngọc tỉ. Tôn Kiên chạy thoát được nhưng quân sĩ đã tử thương quá nửa. Từ đó Tôn Kiên hận thù Lưu Biểu, chỉ chờ cơ hội báo thù. Cuối năm 191, Tôn Kiên dẫn quân đánh Kinh Châu và Tương Dương nhưng bị Lưu Biểu đánh bại, bản thân Tôn Kiên cũng bị tử trận. Con của Tôn Kiên là Tôn Sách phải đổi Hoàng Tổ vừa bắt sống được để lấy thi thể Tôn Kiên về an táng. Sau đó, Tôn Sách cùng các tướng dưới trướng chạy sang Hoài Nam nương nhờ Viên Thuật. Lúc đó liên quân chống Đổng Trác đã bị tan rã, các quan lại quay về địa phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau, quên cả chuyện quan trọng là diệt Đổng Trác. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng.
Viên Thiệu chỉ có 2 quận nhỏ là Quan Đông và Hà Nội. Có lúc lương thực bị cạn kiệt, Viên Thiệu phải mượn lương của lãnh chúa Hàn Phức ở Kí Châu. Bàng Kỷ bày mưu cho Viên Thiệu là một mặt dụ Công Tôn Toản cùng Thiệu đánh Kí Châu, mặt khác báo tin này cho Hàn Phức. Hàn Phức hoảng sợ, lại hèn nhát. Sau khi nghe lời dụ của sứ giả Viên Thiệu là Tuân Thâm, Hàn Phức liền mời Viên Thiệu tới Kí Châu để dâng Kí Châu cho Thiệu nhằm bảo vệ Kí Châu khỏi sự xâm phạm của Công Tôn Toản bất chấp lời can gián của nhiều quan lại khác như Cảnh Võ. Viên Thiệu lấy được Kí Châu mà không tốn một sức lực nào, cho Hàn Phức ở lại Kí Châu sống tới hết đời. Công Tôn Toản biết mình bị Viên Thiệu lừa gạt, lập tức cất quân báo thù. Kết quả là quân của Toản thảm bại, bản thân Toản suýt bị tướng của Viên Thiệu là Văn Xú bắt sống nếu không có Triệu Vân cứu.
Không lâu sau khi Đổng Trác bị giết chết, thuộc hạ khác của hắn là Lý Thôi và Quách Dĩ cùng Trương Tế, Phàn Trù đang đóng quân ở My Ổ cùng nhau nổi dậy làm loạn, báo thù cho chủ khi không được Vương Doãn xá tội. Con rể Đổng Trác là Ngưu Phụ cũng nổi dậy hưởng ứng. Lã Bố diệt được Ngưu Phụ, chủ quan khinh địch nên Lý Thôi, Quách Dĩ tận dung Lã Bố là kẻ hữu dũng vô mưu để lập mưu đánh bại Lã Bố thành công. Chẳng bao lâu sau, bọn Thôi, Dĩ chiếm được Trường An, giết được Vương Doãn, buộc Lã Bố phải bỏ trốn. Lý Thôi, Quách Dĩ nắm vua Hiến Đế thay Đổng Trác.
Cuối năm 193, Mã Đằng và Hàn Toại câu kết với Hán Hiến Đế, đem quân vào Trường An diệt bọn Lý Thôi nhưng thất bại. Phàn Trù nhận lệnh truy kích nhưng lại tha Hàn Toại vì nể tình đồng hương. Lý Thôi nghi ngờ Phàn Trù làm phản nên sang năm 194 liền hành thích giết chết Phàn Trù trong một bữa tiệc.
Năm 193, Tào Tháo cho cha mình là Tào Tung từ quê nhà tới căn cứ Sơn Đông của mình, có đi qua nghỉ đêm ở Từ Châu. Lãnh chúa Từ Châu là Đào Khiêm lệnh cho Trương Khải tiếp tục hộ tống Tào Tung về Sơn Đông. Nhưng Trương Khải lại nảy sinh ý đồ làm phản, đã giết Tào Tung trong đêm. Tào Tháo vô cùng tức giận, đem quân đánh Từ Châu báo thù cho cha mình, quân Đào Khiêm chống cự rất khó khăn, phải liên thủ với Lưu Bị mới đẩy lui được quân Tào. Năm 194, Đào Khiêm ốm chết, Lưu Bị thay Đào Khiêm cai quản Từ Châu.
Sau khi bị Lý Thôi, Quách Dĩ đánh bại, Lã Bố tạm thời chạy trốn, lưu vong một thời gian. Sau đó Lã Bố thấy Tào Tháo lơi lỏng phòng bị nên đã tập hợp quân đội cùng các thuộc hạ như Cao Thuận, Hầu Thành,Trương Liêu và Tạng Bá chiếm Bộc Dương. Sau đó, Lã Bố thu phục mưu sĩ Trần Cung. Với tài túc trí đa mưu, Trần Cung giúp Lã Bố thắng Tào Tháo bao nhiêu trận, đặc biệt là trận Bộc Dương năm 194. Tuy nhiên, Lã Bố đã trúng kế của Tào Tháo nên thua nhiều trận quan trọng sau đó. Lã Bố định sang theo Viên Thiệu nhưng bị từ chối nên Lã Bố đành kết nghĩa với Lưu Bị ở Từ Châu nhưng sau đó lại làm phản khi cướp Từ Châu của ông ta. Lã Bố muốn chuộc lỗi với Lưu Bị nên khi Viên Thuật đánh căn cứ Tiểu Bái của Lưu Bị thì Lã Bố đã bắn kích viên môn, buộc tướng của Viên Thuật là Kỉ Linh phải giải vây rút về. Lã Bố sau đó tiếp tục trở mặt đánh Lưu Bị và chiếm được Tiểu Bái. Lưu Bị dẫn quân về hàng Tào Thào làm thế lực Tào Thào càng trở nên lớn mạnh.
Năm 195, ở Trường An, Dương Bưu và Chu Tuấn thấy bọn Thôi, Dĩ chuyên quyền, đã bày mưu với Hán Hiến Đế, buộc Lý Thôi và Quách Dĩ nảy sinh mâu thuẫn và phải trở mặt đánh lẫn nhau suốt 2 tháng, người chết vô số. Nhân lúc bọn chúng tiêu diệt nhau, Trương Tế họ tống vua Hán về Lạc Dương. Lý Thôi và Quách Dĩ nghe tin phải giảng hòa rồi đem quân đuổi theo bắt vua lại. Đổng Thừa, Dương Phụng, Từ Hoảng nhiều lần giúp vua đẩy lui được quân Lý-Quách nhưng binh lực cứ hao hụt dần. Hán Hiến Đế đành triệu Tào Tháo đem quân vào Trường An cứu giá, cả Lý Thôi và Quách Dĩ đều bị Tào Tháo đánh bại. Lý Thôi, Quách Dĩ đành đem quân về trấn thủ Trường An và My Ổ. Năm 197, Ngũ Tập giết được Quách Dĩ. Năm 198, Đoàn Úy giết được Lý Thôi, Tào Tháo đã xử trảm hơn 200 người nhà Lý Thôi.
Lúc này ở Hoài Nam, Tôn Sách không muốn ở với Viên Thuật nữa, cùng Chu Trị, Trương Chiêu và Lã Phạm ra sức tự lập. Tôn Sách lấy cớ đi đánh hai nghịch tặc nguy hiểm là Lưu Do và Nghiêm Bạch Hổ. Viên Thuật phê chuẩn. Năm 196, Tôn Sách đánh bại được Lưu Do, buộc hắn phải trốn chạy về Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu. Ngay sau đó thế lực Nghiêm Bạch Hổ cũng bị Tôn Sách đánh bại. Nhờ đó, Sách làm chủ Giang Đông, li khai với Viên Thuật và gửi thư bắt hắn trả lại ngọc tỉ nhưng Thuật không chịu. Cuối năm 196, Trương Tế tử trận khi đi đánh Nam Dương, cháu là Trương Tú lên thay và đang rắp tâm đánh Hứa Đô cướp Hán Hiến Đế trước sự lơ là của Tào Tháo. Đầu năm 197, Trương Tú đại phá Tào Tháo ở trận Uyển Thành, tướng của Tào Tháo là Điển Vi và con trưởng của Tào Tháo là Tào Ngang đều phải hi sinh tính mạng của mình để cứu Tháo.
Nhưng quyền lực của Tào Tháo lại ngày một mạnh lên khi sở hữu Hán Hiến Đế, làm thừa tướng ở Hứa Xương. Nhờ uy danh đó mà về sau Tào Tháo dụ hàng được Trương Tú. Viên Thuật ở Hoài Nam do có ngọc tỉ truyền quốc nên cũng tự xưng đế dù chỉ nắm 2 quận, niên hiệu là Trọng Gia. Năm 198, Tào Thào cất quân đánh Lã Bố, ông ta đem quân chiếm Từ Châu, Tiểu Bái và Hạ Phi và giết được Lã Bố ở lầu Bạch Môn. Viên Thuật thấy Tào Tháo vừa tiêu diệt được Lã Bố, thế lực đang rất hùng mạnh nên muốn đem ngôi vua sang trao cho anh hắn là Viên Thiệu để liên thủ nhưng không qua được mắt Tào Tháo. Năm 199, Tào Tháo sai Lưu Bị đem quân đánh Viên Thuật khi hắn đang đem ngọc tỉ và ngôi vua cho Viên Thiệu. Quân Viên Thuật thua to, thây chất đầy đồng, máu chảy thành sông. Không lâu sau thì Viên Thuật lâm bệnh qua đời và thế lực của Thuật hoàn toàn bị Tào Tháo tiêu diệt. Cũng trong năm 199, anh của Viên Thuật là Viên Thiệu đã tiêu diệt được kẻ thù phía Bắc của mình là Công Tôn Toản.
Khi Tào Tháo nắm vua Hán, trở nên lộng quyền ngang ngược, khi quân phạm thượng, lấn lướt Hiến Đế. Hán Hiến Đế không cam chịu thân phận đó, lập tức viết một mật chiếu cho Đổng Thừa, khuyên Thừa giết Tháo. Đổng Thừa lập ra hội Nghĩa trạng, tức là hội chống Tào Tháo. Ít lâu sau có 6 người tham dự là Vương Tử Phục, Chủng Tập, Ngô Thạc, Ngô Tử Lan, Mã Đằng và Lưu Bị. Về sau, Mã Đằng về Tây Lương, Lưu Bị về Từ Châu. Đổng Thừa giận họ nên phát bệnh, thái y Cát Bình phải chữa bệnh cho Thừa. Về sau, Cát Bình phát hiện Thừa muốn diệt Tào Tháo, xin tham gia vào Nghĩa trạng. Nhưng ngay sau đó Đổng Thừa mắc sai lầm nghiêm trọng khi đánh đòn người hầu của mình là Tần Khánh Đồng chỉ vì tội tư thông với con gái ông ta. Đồng oán giận, nói hết vụ hội Nghĩa trạng cho Tào Tháo biết. Tào Tháo liền giả bệnh, dụ Cát Bình tới chữa, sau đó bảo Cát Bình nếm thử thuốc trước rồi bắt Bình tra tấn tới chết. Sau một hồi điều tra, cả 5 người bọn Đổng Thừa cùng cả gia quyến của Đổng Thừa đều bị chém đầu. Đó là vào tháng 1 năm 200.
Về Lưu Bị, sau khi tiêu diệt Viên Thuật đã không về Hứa Đô mà giết thái thú Từ Châu là Xa Trụ và ở lại Từ Châu để ngầm củng cố thế lực. Tào Tháo đã sai Lưu Đại và Vương Trung đem quân tới Từ Châu để giám sát Lưu Bị nhưng bị Lưu Bị dùng mưu đuổi về Hứa Đô. Ngay sau khi trừ Đổng Thừa, Tào Tháo dẫn quân đánh Từ Châu, Lưu Bị chạy về theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam còn Quan Vũ do cùng đường nên đầu hàng Tào Tháo. Về sau, Quan Vũ từ chối mọi ưu đãi của Tào Tháo, tự mình cưỡi ngựa qua 5 ải chém 6 tướng để về với Lưu Bị.
Tiền Xích Bích (200-208)[sửa | sửa mã nguồn]Lưu Bị sau khi li khai Tào Tháo đã sang Kí Châu với Viên Thiệu. Song do Viên Thiệu không quyết đoán, chỉ biết tham lợi nhỏ, lại nghe lời xàm tấu nên Lưu Bị đành bỏ đi theo Lưu Tịch và Cung Đô. Và trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, Tào Tháo giành được thắng lợi ban đầu ở trận Bạch Mã và chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ cuối năm 200. Sang năm 201, Viên Thiệu lại thua một trận lớn khác với Tào Tháo ở Thương Đình nên từ đó bãi binh. Năm 202, Viên Thiệu qua đời, các con của Thiệu là Viên Thượng, Viên Hy và Viên Đàm tàn sát lẫn nhau để chọn người thay thế. Tào Tháo thừa cơ hội đó mà đem quân tiêu diệt Viên Đàm năm 205, chiếm được Kí Châu. Viên Thượng và Viên Hy bỏ chạy sâu vào Liêu Đông. Tào Tháo đem quân tới truy kích thì nhiều trụ cột của Tào Tháo do không hợp thủy thổ mà bệnh chết như Quách Gia. Thấy hành quân khó khăn, Tào Tháo phải mượn tay thái thú Liêu Đông là Công Tôn Khang để giết Viên Thượng và Viên Hy vào năm 207. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Lưu Bị thấy Tào Tháo quyền lực quá lớn, trước sau gì cũng cướp ngôi nhà Hán nên làm phản, lập được căn cứ ở Nhữ Nam, hai anh em của ông ta là Quan Vũ và Trương Phi cũng tìm đường theo về. Năm 201, Lưu Bị tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại, cả Lưu Tịch và Cung Đô đều bị giết. Lưu Bị bèn tới Kinh Châu nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của Lưu Bị cho lánh nạn. Tại đó Lưu Bị thu phục mưu sĩ Từ Thứ. Từ Thứ với tài mưu lược của mình, ông đã giúp Lưu Bị thắng quân Tào nhiều trận. Nhưng Tào Tháo lập mưu bắt mẹ của Từ Thứ, buộc Từ Thứ phải theo mình. Trước khi rời bỏ Lưu Bị, Từ Thứ tiến cử Gia Cát Lượng với Lưu Bị. Sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát Lượng lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá.
Sau khi trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía nam. Khổng Dung can gián, khuyên Tào Tháo không nên nam chinh để tránh làm mất đại nghĩa. Tháo giận lắm, lập tức chém đầu Khổng Dung, cả nhà của Khổng Dung cũng đều bị xử trảm.
Năm 208, Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ là Lưu Kỳ và Lưu Tông. Tào Tháo biết tin, lập tức tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu, do bị tướng cũ của Lưu Biểu là Sái Mạo hãm hại nên rời bỏ Kinh Châu. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Còn ở Kinh Châu, Sái Mạo đưa Lưu Tông làm chúa rồi định giết Lưu Kỳ để trừ họa, nhưng Lưu Kỳ đã theo Lưu Bị trốn về Giang Hạ. Tào Tháo sai người đưa thư tới chiêu hàng Lưu Tông. Lưu Tông đồng ý, dẫn tùy tùng về Hứa Đô đầu hàng, chủ động nộp Kinh Châu cho Tào Tháo. Nhưng Tào Tháo không cho Lưu Tông ở Hứa Đô, muốn Lưu Tông về Kinh Châu để trông nom linh cữu của Lưu Biểu. Trên đường đi, Lưu Tông bị Tào Tháo sai Vu Cấm giết chết.
Còn ở phía đông nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách năm 200. Năm 208, Tôn Quyền đánh bại được Hoàng Tổ ở Giang Hạ và giết được hắn, thu phục được hai tướng dưới trướng Hoàng Tổ là Tô Phi và Cam Ninh. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Các bề tôi của Tôn Quyền chia thành 2 phe là chủ hàng và chủ chiến. Đứng đầu phe chủ hàng là Trương Chiêu, đứng đầu phe chủ chiến là Chu Du. Tôn Quyền nghe theo Chu Du, quyết liên minh với Lưu Bị để đánh Tào Tháo. Mùa đông năm 208, Tào Tháo dẫn đại quân tiến xuống phía nam để thống nhất Trung Hoa và liên minh Tôn-Lưu tận dụng quân Tào kém về thủy chiến, đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích.
Hậu Xích Bích (208-220)[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi thua trận Xích Bích, Tào Tháo đưa Kinh Châu, Tương Dương và Hợp Phì cho Tào Nhân, Hạ Hầu Đôn và Trương Liêu coi giữ. Liên minh Tôn-Lưu cùng xâu xé những vùng đất này. Năm 209, Chu Du dẫn quân đánh Nam Quận, đuổi được Tào Nhân nhưng Nam Quận đã bị Gia Cát Lượng chiếm mất trước đó, và cả Kinh Châu lẫn Tương Dương cũng lần lượt về tay Lưu Bị. Vận đen không ngừng đeo đuổi Đông Ngô khi Tôn Quyền dẫn quân đánh trận Hợp Phì thì bị Trương Liêu đánh bại, một tướng Ngô là Thái Sử Từ chết trận.
Muốn lấy Kinh Châu, Chu Du chỉ cho Lưu Bị mượn Kinh Châu và khi Lưu Kì (con trưởng Lưu Biểu) chết thì phải trả. Cuối năm 209, Lưu Kì mất, Chu Du lại sai Lỗ Túc đến đòi. Một lần nữa Gia Cát Lượng lại dùng mưu để trì hoãn vấn đề này. Vì thế Chu Du rất tức giận và thề sẽ tìm kế trả đũa Gia Cát Lượng.
a. Nghĩa quân Tây Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ thống nhất đất nước
* Lật đổ chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1771 – 1783)
- Năm 1771 cuộc khởi nghĩa do ba anh em Nguyễn Nhac, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo bùng nổ ở ấp Tây Sơn (Bình Định). Năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn kiểm soát phần lớn phủ Quy Nhơn.
- Từ năm 1776 – 1783: Quân Tây Sơn dốc toàn lực lượng đánh vào Đàng Trong. Chính quyền chúa Nguyễn bị tiêu diệt.
* Lật đổ chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài (1786 – 1788)
Từ năm 1786 – 1788, Nguyễn Huệ dẫn quân ra Đàng Ngoài, phá bỏ ranh giới sông Gianh, lũy Thầy; lần lượt lật đỏ tập đoàn phong kiến Trịnh – Lê và cơ bản lập lại nền thống nhất đất nước.
b. Nghĩa quân Tây Sơn hoàn thành việc bảo vệ Tổ quốc:
* Đánh bại quân Xiêm (1785)
- Do Nguyễn Ánh cầu cứu, năm 1784, vua Xiêm cử tướng chỉ huy 5 vạn quân sang xâm lược nước ta
Tháng 1 – 1785 Nguyễn Huệ tiến quân vào Gia Định. Được sự ủng hộ của nhân dân, Nguyễn Huệ tổ chức trận phục kích trên sông Tiền đoạn Rạch Gầm – Xoài Mút, đánh tan quân Xiêm. Miền Nam trở lại yên bình.
* Đánh tan quân Thanh (1789)
- Do vua Lê Chiêu Thống cầu cứu, năm 1788, nhà Thanh huy động 29 vạn quân sang xâm lược nước ta.
- Sau khi nhận được tin quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, thống nhất đại quân, khẩn trương lên đường ra Bắc diệt giặc, trên đường đi có dừng lại ở Nghệ An, Thanh Hóa để tuyển thêm quân.
- Vào đêm 30 tết, 5 mũi tiến công của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy được lệnh xuất hiện. Sau 5 ngày (bắt đầu từ đêm 30 đến trưa mồng 5 Tết Kỉ Dậu), tiến công thần tốc, chiến đấu quyết liệt và với chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh bại quân Thanh, tiến vào Thăng Long.
c. Vai trò của Nguyễn Huệ - Quang Trung trong phong trào Tây Sơn
- Là người giữ vai trò quan trọng trong việc đánh đổ chúa Nguyễn ở Đàng Trong và vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, thống nhất đất nước.
- Là người chỉ huy tài tình trong các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm và quân Thanh ở cuối thế kỉ VXIII.
- Đã đưa ra các chính sách hợp lí nhằm phát triển đất nước.
Nghĩa quân Tây Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ thống nhất đất nước:
* Lật đổ chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1771 – 1783)
- Năm 1771 cuộc khởi nghĩa do ba anh em Nguyễn Nhac, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo bùng nổ ở ấp Tây Sơn (Bình Định). Năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn kiểm soát phần lớn phủ Quy Nhơn.
- Từ năm 1776 – 1783: Quân Tây Sơn dốc toàn lực lượng đánh vào Đàng Trong. Chính quyền chúa Nguyễn bị tiêu diệt.
* Lật đổ chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài (1786 – 1788)
Từ năm 1786 – 1788, Nguyễn Huệ dẫn quân ra Đàng Ngoài, phá bỏ ranh giới sông Gianh, lũy Thầy; lần lượt lật đỏ tập đoàn phong kiến Trịnh – Lê và cơ bản lập lại nền thống nhất đất nước.
Nghĩa quân Tây Sơn hoàn thành việc bảo vệ Tổ quốc:
* Đánh bại quân Xiêm (1785)
- Do Nguyễn Ánh cầu cứu, năm 1784, vua Xiêm cử tướng chỉ huy 5 vạn quân sang xâm lược nước ta
Tháng 1 – 1785 Nguyễn Huệ tiến quân vào Gia Định. Được sự ủng hộ của nhân dân, Nguyễn Huệ tổ chức trận phục kích trên sông Tiền đoạn Rạch Gầm – Xoài Mút, đánh tan quân Xiêm. Miền Nam trở lại yên bình.
* Đánh tan quân Thanh (1789)
- Do vua Lê Chiêu Thống cầu cứu, năm 1788, nhà Thanh huy động 29 vạn quân sang xâm lược nước ta.
- Sau khi nhận được tin quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, thống nhất đại quân, khẩn trương lên đường ra Bắc diệt giặc, trên đường đi có dừng lại ở Nghệ An, Thanh Hóa để tuyển thêm quân.
- Vào đêm 30 tết, 5 mũi tiến công của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy được lệnh xuất hiện. Sau 5 ngày (bắt đầu từ đêm 30 đến trưa mồng 5 Tết Kỉ Dậu), tiến công thần tốc, chiến đấu quyết liệt và với chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh bại quân Thanh, tiến vào Thăng Long.
Vai trò của Nguyễn Huệ - Quang Trung trong phong trào Tây Sơn:
- Là người giữ vai trò quan trọng trong việc đánh đổ chúa Nguyễn ở Đàng Trong và vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, thống nhất đất nước.
- Là người chỉ huy tài tình trong các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm và quân Thanh ở cuối thế kỉ VXIII.
- Đã đưa ra các chính sách hợp lí nhằm phát triển đất nước.
Trong Hồi trống cổ Thành, bằng hai cách khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và sắc thái tính cách của từng người, hai nhân vật đã cùng chứng minh chữ “nghĩa” của người anh hùng như những vẻ đẹp lí tưởng được con người muôn đời yêu chuộng
1. Tam quốc diễn nghĩa lấy trục tường thuật chính là cuộc đấu tranh quân sự giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Nếu những sự kiện làm nên bộ khung vững chắc, hài hòa cho trục tường thuật thì hình tượng hàng nghìn nhân vật anh hùng là da thịt, là sức sống linh hoạt của trục tường thuật đó. Trong tiểu thuyết, họ được xây dựng thành những con người tượng trưng cho một hay nhiều vẻ đẹp lí tưởng theo quan niệm của tác giả.
Ta biết rằng tài liệu viết nên tiểu thuyết được La Quán Trung tập hợp từ nguồn sử liệu, nguồn truyền thuyết, dân gian và nguồn kịch. Ta cũng biết một truyền thống của văn học Trung Quốc là sự tác động qua lại phức tạp giữa văn học thành văn và văn học truyền miệng. Trong tư tưởng về người anh hùng của La Quán Trung có thể thấy sự tổng hợp nhiều quan niệm khác nhau, từ quan niệm của nhà viết sứ chính thông đến quan niệm của người kế chuyện dân gian (gọi là “thuyết thoại nhân”). Nói về ảnh hưởng tôn giáo thì có thể thấy sự đan xen phức tạp cả Nho, Phật và Đạo theo quy luật chung của thể loại: “bước chuyển từ bình thoại sang tiểu thuyết chứa đựng những thay đổi sâu sắc về hệ thống tư tưởng, những quan niệm chủ yếu theo Phật giáo của bình thoại đều bị thay thế bởi quan điểm Nho giáo công khai của tác giả tiểu thuyết, nhưng lại chịu ảnh hưởng Đại giáo”. Mặc dù vậy, trên cơ bản tư tưởng về người anh hùng của Tam quốc diễn nghĩa là sự phản ánh trung thành tư tưởng và khát vọng của nhân dân.
2. Trong quá trình xây dựng nhân vật anh hùng, ta có thể nói đến tiêu chí nghĩa khí với hai khía cạnh trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa thể hiện quan hệ dọc, nghĩa với bề trên, trung với nhà Hán. Tín nghĩa thể hiện quan hệ ngang, nghĩa với anh em, tín với bạn bè. Tuy nhiêu, thực chất, cái quyết định lòng yêu ghét của tác giả cũng như độc giả đối với các hình tượng nhân vật anh hùng chưa hẳn là chữ nghĩa như trên đã nói. Thái độ “ủng Lưu phản Tào” xuyên suốt trong tác phẩm không chỉ vì “đế thục khẩu Ngụy” 'Thục là vua, Ngụy là giặc) mà còn vì “một nhân tố quan trọng nói lên cái đẹp của cá tính nhân vật là bộ mặt đạo đức”. Trong suốt tác phẩm, rất nhiều lần tác giả đề cập đến dòng dõi chính thống của Lưu Bị cũng như tấm lòng trung nghĩa tận tụy của Lưu Bị đối với cơ nghiệp của nhà Hán đặt trong sự đối lập gay gắt với sự phản nghịch của “tên giặc nhà Hán” Tào Tháo. Song cũng không ít lần, tác giả lên tiếng công kích những nhân vật thuộc dòng dõi chính thống mà hèn nhát, vô dụng bất tài hay hết lời ca ngợi những vị lãnh đạo không thuộc dòng dõi chính thống - nhân vật Tôn Quyền là một ví dụ sinh động. Thái độ “ủng Lưu” của tác giả là một nhân tố quan trọng bộc lộ quan điểm về người anh hùng. Thái độ này thể hiện ở hai khía cạnh chính:
Thứ nhất, La Quán Trung tập trung mọi phẩm chất lí tưởng của một vị minh, quân theo quan niệm của nhân dân vào vị anh hùng cầm phe Thục, trong đó nổi bật nhất là chữ “Nhân”. Đáng chú ý là dường như mỗi lần nói Luu Bị “nhân” là một lần tác giả trực tiếp hay gián tiếp so ánh với Tào Tháo “bất nhân” và ngược lại. La Quán Trung cũng đã để cho chính nhân vật Lưu Bị phát biểu điều này: “Tháo dĩ cấp, ngô dĩ khoan; Tháo dĩ bạo, ngô dĩ nhân; Tháo dĩ nguyệt, ngô dĩ trung". (Tháo nhanh, ta thong thả, Tháo dùng bạo lực, ta dùng nhàn nghĩa, Tháo dùng âm mưu xảo trá, ta lấy lòng trung thành đối đãi). Vấn đề tác giả đặt ra ở đây không phải là hình ảnh một ông vua thuộc dòng chính thống mà là hình ảnh một ông vua lí tưởng trong quan niệm và khát vọng cùa nhân dàn. Đó là một ông vua lấy “nhân” làm lẽ sống, lấy sự yên ổn, hạnh phúc của dân chúng làm mục đích hàng đầu.
Thứ hai, mọi tập đoàn trong Tam quốc diễn nghĩa đều là nơi quy tự của những anh hùng trong thiên hạ. Song tập đoàn Lưu Thục không chỉ là nơi tập trung rất nhiều người anh hùng mà quan trọng hơn là nơi tinh thần trung nghĩa tín nghĩa giữa những người anh hùng được hết sức trân trọng. Điển hình của tinh thần này là câu chuyện kết nghĩa vườn dào của ba anh em Lưu - Quan - Trương. Không phải là quan hệ vua tôi bình thường như quan hệ giữa Tào Tháo, Tôn Quyền với thuộc hạ, quan hệ giữa họ là vua tôi nhưng tình nghĩa là anh em. Mốì liên kết nhờ kết nghĩa giữa những con người này thậm chí còn khăng khít hơn cả môi liên kết ruột thịt. Thực chất đó là quan hệ vua tôi lí tưởng trong con mắt nhân dân.
Tuy nhiên, mặt khác cũng phải khẳng định rằng việc đứng về phía Lưu Thục hay phía đối lập hoàn toàn không phải là yếu tố có ý nghĩa quyết định một nhân vật có phải là anh hùng hay không. Chu Du vẫn là một nhân vật anh hùng rất vẹn toàn cho dù Chu Du thuộc phe Tôn Quyền và luôn luôn là kẻ đối lập trưc tiếp hay ngấm ngầm với phe Lưu Thục. Ngoài ra, không chi một lần ta bắt gặp tình huống sau: một viên tướng (thuộc bất kì phe nào) bại trận và rơi vào tay phe đối địch. Trước mắt họ có hai con đường: chống lại và sẵn sàng chịu chết hay hàng phục và chờ đợi được hậu đãi. Và trong hầu hết mọi trường hợp, kẻ kiên quyết khóng thờ hai chủ, kẻ “vươn- cổ chịu chém luôn được ca ngợi là “có nghĩa”, được chính kẻ thù, sau khi hành xử, lại hậu táng với lòng thương tiếc. Như vậy, người anh hùng có “nghĩa”, có “nhân" theo quan điểm đương thời luôn được ca ngợi, cho dù họ thuộc về phe nào.
Nói tác giả căn cứ vào “nghĩa” để xác định tiêu chí “anh hùng” của nhân vật có thể đúng nhưng chưa đủ. Có thể thấy rõ điều này qua cách La Quán Trung nhìn nhận và mô tả nhân vật Tào Tháo. Tào Tháo trong tác phẩm là một nhân vật phản diện điển hình, là nơi tập trung những nét tính cách tàn bạo, đa nghi, xảo quyệt. Nhưng bên cạnh đó La Quán Trung cũng mô tả Tào Tháo với không ít những phẩm chất của người anh hùng, người lãnh đạo như đa mưu túc trí, thức thời, nhất là giỏi nhìn người và dùng người. Trong hàng nghìn nhân vật anh hùng của tiểu thuyết., chỉ có Khổng Minh mới sánh được với Tháo về điểm này. Tào Tháo đã được miêu tả với đầy đủ những phẩm chất của một “năng thần đời trị” và “gian thần đời loạn”, đúng như lời tiên đoán báo đầu cuốn sách. La Quán Trung, trước khi viết tiểu thuyết, hẳn nắm rất rõ biên niên sử chính thống cũng như sự cải biến của các thoại bản, ông hẳn cũng đã cân nhắc về sự hài hòa giữa chân lí lịch sử và chận lí nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Do vậy, ông một mặt xây dựng Tào Tháo như một điển hình của tính cách bất nhân phi nghĩa, mặt khác vẫn thừa nhận tài năng hiếm có của Tào Tháo trên nhiều lĩnh vực; một mặt cực tả cái “gian” của Tháo khiến người ta phải căm ghét, đồng thời vẫn làm rõ cái 'hùng” cùa Tháo khiến nghệ thuật không thể không nể phục. Ta biết rằng trong thực tế lịch sử, Tào Tháo không đến nỗi “tệ” như nhân vật Tào Tháo trong tác phẩm. Như vậy, am hiểu về lịch sử, La Quán Trung hoàn toàn có thể xây dựng nhân vật Tào Tháo với những nét tính cách theo sát, thực tế lịch sử, như một anh hùng cùa thời đại. Nhưng La Quán Trung không làm như vậy, ông đả tập trung mọi nét tính cách xấu xa vào Tào Tháo, khiến Tháo trở thành một. điển hình phản diện trong tác phẩm. Rõ ràng điều đó là một phần ý đồ nghệ thuật của ông. Nhưng một khi đã đặt vấn đề như vậy thì chúng ta cũng có thể nêu câu hỏi ngược lại: tại sao La Quán Trung không tước bỏ hẳn phần ‘hùng” trong nhân vật Tào Tháo để khắc họa “trọn vẹn’’ một tính cách “tuyệt gian”? Tại sao ông không để cho người đọc có thể ghét Tháo theo cái cách người ta ghét Đổng Trác chẳng hạn, mà vẫn khiên người ta phải vừa ghét vừa nể phục? Điều này thế hiện cách nhìn nhận nhân vật vừa khách quan vừa tinh tế của La Quán Trung. Chính cách nhìn nhận trên đã khiến ông hết sức thành công trong nghệ thuật xây dựng Tào Tháo thành một. nhân vật “gian hùng” điển hình. “Gian hùng” ở đây không có nghĩa lả phép cộng giản đơn giữa tính cách “gian” và tính cách “hùng”, mà nghĩa là trong “gian” có “hùng” và ngược lại, nói cách khác đó là cái '“gian” cùa một người vốn có chất “hùng” và cái “hùng” của một người vốn có chất “gian’’! Do vậy, Tào Tháo đã được đánh giá là một “nhân vật điển hình”. Có đặt vấn đổ trên vào tình hình văn học đương thời, khi mà các nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết đều là nhân vật loại hình với tính cách nhất phiên một chiểu, ta mới đánh giá đúng tài năng của La Quán Trung.
3. “Hồi trống cổ Thành” được giảng dạy trong chương trình Văn học 10 (tập hai) chỉ là một trích đoạn ngắn chưa đầy vài ba trang giấy trong toàn bộ tác phẩm trường thiên Tam quốc diễn nghĩa. Tuy nhiên, với nhiệt tình ca ngợi người anh hùng và tài năng tổ chức nghệ thuật đạt đến trình độ xảo diệu, La Quán Trung đã thể hiện được cái “nghĩa” của người anh hùng với tất cả vẻ đẹp ngời sáng cũng như diện mạo phong phú của nó. Trích đoạn này rút ra từ hồi 28 với tên gọi “Chém Sái Dương anh em hoài giải. Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên” (chữ “hồi” ở đây có nghĩa là “quay trở về”, khác với chữ “hồi” trong “Hồi trống Cổ Thành). Chính tình huống xung đột do hiếu lầm và sự minh oan bằng hành động cúa các vị anh hùng đã tạo nên hoàn cảnh thật đặc biệt, để những phẩm chất trung nghĩa tín nghĩa có dịp bộc lộ.
Quan Công và Trương Phi là hai nhân vật được xây dựng như những hình tượng tiêu biểu của người anh hùng xuyên suốt tiểu thuyết. Tuy nhiên, riêng ở trích đoạn này, những phẩm chất anh hùng của họ được đặt trong mối quan hệ với nhau, soi sáng lẫn nhau. Nếu như Trương Phi vốn nổi tiếng là người anh hùng trượng nghĩa một cách thẳng thắn, cương trực, trong sáng đến tận độ thì ở trích đoạn này, những đặc điểm nói trên phải đối diện với một tình huống thật khó xử: gặp lại người anh kết nghĩa vườn đào Quan Công đưa hai phu nhân của người anh cả đồng thời cũng là chủ nhân Lưu Bị trở về, nhưng oái ăm thay, người anh đó đã “bỏ anh, hàng Tào Tháo”, “thờ hai chủ” (theo cách nghĩ của Trương Phi). Với Trương Phi, Quan Công đã bước qua làn ranh giới không thể lẫn lộn giữa “nghĩa” và “bội nghĩa’, “nghĩa” và “phụ nghĩa”, đã biến từ người anh kết nghĩa và người bại cùng chí hướng thành kẻ thù không đội trời chung. Do vậy, trong trích đoạn này, chữ “nghĩa” của Trương Phi được thể hiện ngời sáng nhất chính ở những hành động như “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”, hay lời nói “Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy”. Tuy nhiên, cũng nhờ tấm lòng trung tính ngay thẳng sáng trong đó đã khiến tác giả có thể mô tả Trương Phi không mội chút khiên cưỡng thay đổi hoàn toàn thái độ khi Quan Công đã chém được Sái Dương lúc chưa dứt một hồi trống, khi đã nghe tên lính cầm cờ hiệu của Sái Dương và cả lúc chưa dứt một hồi trống, khi đã nghe tên lính cầm cờ hiệu của Sái Dương và cả Cam phu nhân, Mi phu nhân kể về cuộc sống của Quan Công khi ở bên Tào, không có chút mâu thuẫn nào giữa một Trương Phi hăm hở cầm xà mâu đâm Quan Công ở đầu trích đoạn và một Trương Phi “rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường” ở cuối trích đoạn. Còn Quan Công vốn đã được mệnh danh là nhân vật “tuyệt nghĩa” (bên cạnh Lưu Bị “tuyệt nhân”, Khổng Minh “tuyệt trí”). Song đến trích đoạn này, chữ “nghĩa" của Quan Công phải đối mặt với một thử thách oái ăm khi đứng trước người anh hùng không phải là những cám dỗ tiền tài, rượu ngon, gái đẹp, ngựa hay... như khi còn ở trong cảnh “thân tại Tào doanh tâm tại Hán” để Quan Công có thế chối từ, cũng không phải năm cửa ải hiểm trở của quân thù để Quan Công có thể “qua năm cửa ải chém sáu tướng Tào”. Quan Công mừng rỡ chạy lại, Trương Phi cầm xà mâu xông tới mắng Quan Công là kẻ “bội nghĩa”. Quan Công phân trần, Trương Phi gọi Quan Công là kẻ nói dối. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi cuộc gặp gỡ với Trương Phi là “cửa ải thứ sáu” mà Quan Công phải vượt, qua để chứng tỏ tấm lòng trung nghĩa tín nghĩa vẹn toàn. Quan Công đã làm điều đó đúng như người anh hùng đích thực phải làm: chém đầu tướng Tào Sái Dương khi hồi trống thách thức thứ nhất còn chưa dứt. Đây cũng là một điều rất dễ dàng nhận thấy: tuân thủ bút pháp xây dựng nhân vật của tiểu thuyết cổ điển, các nhân vật anh hùng chủ yếu sử dụng hành động để thể hiện tính cách - ở đây là tấm lòng trung nghĩa tín nghĩa của mình.
Như vậy, trong Hồi trống cổ Thành, bằng hai cách khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và sắc thái tính cách của từng người, hai nhân vật đã cùng chứng minh chữ “nghĩa” của người anh hùng như những vẻ đẹp lí tưởng được con người muôn đời yêu chuộng.
1. Tam quốc diễn nghĩa lấy trục tường thuật chính là cuộc đấu tranh quân sự giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Nếu những sự kiện làm nên bộ khung vững chắc, hài hòa cho trục tường thuật thì hình tượng hàng nghìn nhân vật anh hùng là da thịt, là sức sống linh hoạt của trục tường thuật đó. Trong tiểu thuyết, họ được xây dựng thành những con người tượng trưng cho một hay nhiều vẻ đẹp lí tưởng theo quan niệm của tác giả. Ta biết rằng tài liệu viết nên tiểu thuyết được La Quán Trung tập hợp từ nguồn sử liệu, nguồn truyền thuyết, dân gian và nguồn kịch. Ta cũng biết một truyền thống của văn học Trung Quốc là sự tác động qua lại phức tạp giữa văn học thành văn và văn học truyền miệng. Trong tư tưởng về người anh hùng của La Quán Trung có thể thấy sự tổng hợp nhiều quan niệm khác nhau, từ quan niệm của nhà viết sứ chính thông đến quan niệm của người kế chuyện dân gian (gọi là “thuyết thoại nhân”). Nói về ảnh hưởng tôn giáo thì có thể thấy sự đan xen phức tạp cả Nho, Phật và Đạo theo quy luật chung của thể loại: “bước chuyển từ bình thoại sang tiểu thuyết chứa đựng những thay đổi sâu sắc về hệ thống tư tưởng, những quanniệm chủ yếu theo Phật giáo của bình thoại đều bị thay thế bởi quan điểm Nho giáo công khai của tác giả tiểu thuyết, nhưng lại chịu ảnh hưởng Đại giáo”. Mặc dù vậy, trên cơ bản tư tưởng về người anh hùng củaTam quốc diễn nghĩa là sự phản ánh trung thành tư tưởng và khát vọng của nhân dân. 2. Trong quá trình xây dựng nhân vật anh hùng, ta có thể nói đến tiêu chí nghĩa khí với hai khía cạnh trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa thể hiện quan hệ dọc, nghĩa với bề trên, trung với nhà Hán. Tín nghĩa thể hiện quan hệ ngang, nghĩa với anh em, tín với bạn bè. Tuy nhiêu, thực chất, cái quyết định lòng yêu ghét của tác giả cũng như độc giả đối với các hình tượng nhân vật anh hùng chưa hẳn là chữ nghĩa như trên đã nói. Thái độ “ủng Lưu phản Tào” xuyên suốt trong tác phẩm không chỉ vì “đế thục khẩu Ngụy” 'Thục là vua, Ngụy là giặc) mà còn vì “một nhân tố quan trọng nói lên cái đẹp của cá tính nhân vật là bộ mặt đạo đức”. Trong suốt tác phẩm, rất nhiều lần tác giả đề cập đến dòng dõi chính thống của Lưu Bị cũng như tấm lòng trung nghĩa tận tụy của Lưu Bị đối với cơ nghiệp của nhà Hán đặt trong sựđối lập gay gắt với sự phản nghịch của “tên giặc nhà Hán” Tào Tháo. Song cũng không ít lần, tác giả lên tiếng công kích những nhân vật thuộc dòng dõi chính thống mà hèn nhát, vô dụng bất tài hay hết lời ca ngợi những vị lãnh đạo không thuộc dòng dõi chính thống - nhân vật Tôn Quyền là một ví dụ sinh động. Thái độ “ủng Lưu” của tác giả là một nhân tố quan trọng bộc lộ quan điểm về người anh hùng. Thái độ này thể hiện ở hai khía cạnh chính:Thứ nhất, La Quán Trung tập trung mọi phẩm chất lí tưởng của một vị minh, quân theo quan niệm của nhân dân vào vị anh hùng cầm phe Thục, trong đó nổi bật nhất là chữ “Nhân”. Đáng chú ý là dường như mỗi lần nói Luu Bị “nhân” là một lần tác giả trực tiếp hay gián tiếp so ánh với Tào Tháo “bất nhân” và ngược lại. La Quán Trung cũng đã để cho chính nhân vật Lưu Bị phát biểu điều này: “Tháo dĩ cấp, ngô dĩ khoan; Tháo dĩ bạo, ngô dĩ nhân; Tháo dĩ nguyệt, ngô dĩ trung". (Tháo nhanh, ta thong thả, Tháo dùng bạo lực, ta dùng nhàn nghĩa, Tháo dùng âm mưu xảo trá, ta lấy lòng trung thành đối đãi). Vấn đề tác giả đặt ra ở đây không phải là hình ảnh một ông vua thuộc dòng chính thống mà là hình ảnh một ông vua lí tưởng trong quan niệm và khát vọng cùa nhân dàn. Đó là một ông vua lấy “nhân” làm lẽ sống, lấy sự yên ổn, hạnh phúc của dân chúng làm mục đích hàng đầu. Thứ hai, mọi tập đoàn trong Tam quốc diễn nghĩa đều là nơi quy tự của những anh hùng trong thiên hạ. Song tập đoàn Lưu Thục không chỉ là nơi tập trung rất nhiều người anh hùng mà quan trọng hơn là nơi tinh thần trung nghĩa tín nghĩa giữa những người anh hùng được hết sức trân trọng. Điển hình của tinhthần này là câu chuyện kết nghĩa vườn dào của ba anh em Lưu - Quan - Trương. Không phải là quan hệ vua tôi bình thường như quan hệ giữa Tào Tháo, Tôn Quyền với thuộc hạ, quan hệ giữa họ là vua tôi nhưng tình nghĩa là anh em. Mốì liên kết nhờ kết nghĩa giữa những con người này thậm chí còn khăng khít hơn cả môi liên kết ruột thịt. Thực chất đó là quan hệ vua tôi lí tưởng trong con mắt nhân dân. Tuy nhiên, mặt khác cũng phải khẳng định rằng việc đứng về phía Lưu Thục hay phía đối lập hoàn toàn không phải là yếu tố có ý nghĩa quyết định một nhân vật có phải là anh hùng hay không. Chu Du vẫnlà một nhân vật anh hùng rất vẹn toàn cho dù Chu Du thuộc phe Tôn Quyền và luôn luôn là kẻ đối lập trưc tiếp hay ngấm ngầm với phe Lưu Thục. Ngoài ra, không chi một lần ta bắt gặp tình huống sau: một viên tướng (thuộc bất kì phe nào) bại trận và rơi vào tay phe đối địch. Trước mắt họ có hai con đường: chống lại và sẵn sàng chịu chết hay hàng phục và chờ đợi được hậu đãi. Và trong hầu hết mọi trường hợp,kẻ kiên quyết khóng thờ hai chủ, kẻ “vươn- cổ chịu chém luôn được ca ngợi là “có nghĩa”, được chính kẻ thù, sau khi hành xử, lại hậu táng với lòng thương tiếc. Như vậy, người anh hùng có “nghĩa”, có “nhân" theo quan điểm đương thời luôn được ca ngợi, cho dù họ thuộc về phe nào. Nói tác giả căn cứ vào “nghĩa” để xác định tiêu chí “anh hùng” của nhân vật có thể đúng nhưng chưa đủ. Có thể thấy rõ điều này qua cách La Quán Trung nhìn nhận và mô tả nhân vật Tào Tháo. Tào Tháo trong tác phẩm là một nhân vật phản diện điển hình, là nơi tập trung những nét tính cách tàn bạo, đa nghi, xảo quyệt. Nhưng bên cạnh đó La Quán Trung cũng mô tả Tào Tháo với không ít những phẩm chất của người anh hùng, người lãnh đạo như đa mưu túc trí, thức thời, nhất là giỏi nhìn người và dùng người. Trong hàng nghìn nhân vật anh hùng của tiểu thuyết., chỉ có Khổng Minh mới sánh được với Tháo về điểm này. Tào Tháo đã được miêu tả với đầy đủ những phẩm chất của một “năng thần đời trị” và “gian thần đời loạn”, đúng như lời tiên đoán báo đầu cuốn sách. La Quán Trung, trước khi viết tiểu thuyết, hẳn nắm rất rõ biên niên sử chính thống cũng như sự cải biến của các thoại bản, ông hẳn cũng đã cân nhắc về sự hài hòa giữa chân lí lịch sử và chận lí nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Do vậy, ông một mặt xây dựng Tào Tháo như một điển hình của tính cách bất nhân phi nghĩa, mặt khác vẫn thừa nhận tài năng hiếm có của Tào Tháo trên nhiều lĩnh vực; một mặt cực tả cái “gian” của Tháo khiến người ta phải căm ghét, đồng thời vẫn làm rõ cái 'hùng” cùa Tháo khiến nghệ thuật không thể không nể phục. Ta biết rằng trong thực tế lịch sử, Tào Tháo không đến nỗi “tệ” như nhân vật Tào Tháo trong tác phẩm. Như vậy, am hiểu về lịch sử, La Quán Trung hoàn toàn có thể xây dựng nhân vật Tào Tháo với những nét tính cách theo sát, thực tế lịch sử, như một anh hùng cùa thời đại. Nhưng La Quán Trung không làm như vậy, ông đả tập trung mọi nét tính cách xấu xa vào Tào Tháo, khiến Tháo trở thành một. điển hình phản diện trong tác phẩm. Rõ ràng điều đó là một phần ý đồ nghệ thuật của ông. Nhưng một khi đã đặt vấn đề như vậy thìchúng ta cũng có thể nêu câu hỏi ngược lại: tại sao La Quán Trung không tước bỏ hẳn phần ‘hùng” trong nhân vật Tào Tháo để khắc họa “trọn vẹn’’ một tính cách “tuyệt gian”? Tại sao ông không để cho người đọc có thể ghét Tháo theo cái cách người ta ghét Đổng Trác chẳng hạn, mà vẫn khiên người ta phải vừa ghét vừa nể phục? Điều này thế hiện cách nhìn nhận nhân vật vừa khách quan vừa tinh tế của La Quán Trung. Chính cách nhìn nhận trên đã khiến ông hết sức thành công trong nghệ thuật xây dựng Tào Tháo thành một. nhân vật “gian hùng” điển hình. “Gian hùng” ở đây không có nghĩa lả phép cộng giản đơn giữa tính cách “gian” và tính cách “hùng”, mà nghĩa là trong “gian” có “hùng” và ngược lại, nói cách khác đó là cái '“gian” cùa một người vốn có chất “hùng” và cái “hùng” của một người vốn có chất “gian’’! Do vậy, Tào Tháo đã được đánh giá là một “nhân vật điển hình”. Có đặt vấn đổ trên vào tình hình văn học đương thời, khi mà các nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết đều là nhân vật loại hình với tính cách nhất phiên một chiểu, ta mới đánh giá đúng tài năng của La Quán Trung. 3. “Hồi trống cổ Thành” được giảng dạy trong chương trình Văn học 10 (tập hai) chỉ là một trích đoạnngắn chưa đầy vài ba trang giấy trong toàn bộ tác phẩm trường thiên Tam quốc diễn nghĩa. Tuy nhiên, vớinhiệt tình ca ngợi người anh hùng và tài năng tổ chức nghệ thuật đạt đến trình độ xảo diệu, La Quán Trung đã thể hiện được cái “nghĩa” của người anh hùng với tất cả vẻ đẹp ngời sáng cũng như diện mạo phong phú của nó. Trích đoạn này rút ra từ hồi 28 với tên gọi “Chém Sái Dương anh em hoài giải. Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên” (chữ “hồi” ở đây có nghĩa là “quay trở về”, khác với chữ “hồi” trong “Hồi trống Cổ Thành). Chính tình huống xung đột do hiếu lầm và sự minh oan bằng hành động cúa các vị anh hùng đã tạo nên hoàn cảnh thật đặc biệt, để những phẩm chất trung nghĩa tín nghĩa có dịp bộc lộ
Xem nội dung đầy đủ tại:http://123doc.org/document/3098251-hinh-tuong-nguoi-anh-hung-va-tieu-chi-nghia-trong-tam-quoc-dien-nghia-cua-la-quan-trung.htm