Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.
Đặt câu:
- Ở ngoài đang mưa to gió lớn, đừng ra ngoài.
- Người nông dân phải một nắng hai sương nơi đồng quê
- "Ăn xổi ở thì": mang ý chê bai những người có tính cách hời hợt, thiếu cẩn thận, được đến đâu hay đến đó, không biết tính toán bền vững lợi ích lâu dài.
Đặt câu: Nó giỏi thật nhưng lại là đứa ăn xổi ở thì.
- "Tắt lửa tối đèn": mang hàm ý nói về những khó khăn hoạn nạn đều có tình làng xóm thân quen gắn bó.
Đặt câu: Xóm tôi tắt lửa tối đèn có nhau.
- "Tối đen như mực": chỉ đến trạng thái rõ mực đội rất tối của bóng tối.
Đặt câu: Trời tối đen như mực.
- "Hôi như cú mèo": chỉ đến tính chất hôi hám lâu ngày không chịu rửa.
Đặt câu: Người nó hôi như cú mèo vậy.
1. chúng ta là hàng xóm tắt lửa tối đèn có nhau.
2. Tôi muốn cuộc sống của mình thật ý nghĩa từng giây từng phút chứ ko phải c/s mà lúc nào cũng phải ăn sổi ở thì ko lo cho tương lai
3.Mấy ngày rồi nó ko tắm người nói hôi như cú mèo .
1. húng ta là hàng xóm tắt lửa tối đền có nhau
2. Tôi muốn cuộc sống của mình thật ý nghĩa từng giấy từng phút chứ phải mà lúc nào cũng phải ăn sôi ở thì không lo cho tương lai
3. Mấy ngày rồi không tắm hôi như cú mèo
3.Xác định chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ trong các câu sau và cho biết chúng thuộc kiểu câu gì?
Qua khe dậu / ló ra mấy quả / đỏ chói => Câu đơn
TN CN VN
Những tàu lá chuối / vàng ối xoã xuống như những đuôi áo, vạt áo. => Câu đơn CN VN |
Ngày qua, trong sương thu ẩm ướt và mưa rây bụi mùa đông, những chùm hoa khép miệng / TN CN bắt đầu kết trái. => Câu đơn VN |
Sự sống / cứ tiếp tục trong âm thầm, hoa thảo quả / nảy dưới gốc gây kín đáo và lặng lẽ.=> Câu ghép CN VN CN VN |
Đảo xa / tím pha hồng.=> Câu đơn CN VN |
Sông / có thể cạn, núi / có thể mòn, song chân lí đó / không bao giờ thay đổi.=> Câu ghép CN VN CN VN CN VN |
Tôi / rảo bước và truyền đơn cứ từ từ rơi xuống.=> Câu đơn CN VN |
Tiếng cười nói / ồn ã.=> Câu đơn CN VN |
Hoa lá, quả chín, những vạt nấm ẩm ướt và con suối chảy thầm dưới chân / đua nhau toả mùi CN VN thơm => Câu đơn
|
|
Sau tiếng chuông chùa / mặt trăng / đã nhỏ lại, sáng vằng vặc.=> Câu đơn TN CN VN |
Dưới ánh trăng / dòng sông / sáng rực lên, những con sóng nhỏ /vỗ nhẹ vào hai bờ cát. TN CN VN CN VN |
=> Câu ghép |
Cái hình ảnh trong tôi về cô / đến bây giờ / vẫn còn rõ nét.=> Câu đơn CN TN VN
|
Ngày tháng / đi thật chậm mà cũng thật nhanh.=> Câu đơn CN VN |
Đứng bên đó / Bé / trông thấy con đò, xóm chợ, rặng trâm bầu và cả những nơi ba má Bé TN CN VN đang đánh giặc. => Câu đơn
|
Những con bọ nẹt béo núc, mình đầy lông lá giữ tợn / bám đầy các cành cây. CN VN => Câu đơn |
Trưa / nước biển / xanh lơ và khi chiều tà / biển / đổi sang màu xanh lục.=> Câu ghép TN CN VN TN CN VN |
Trên nền cát trắng tinh / nơi ngực cô Mai / tì xuống đón đường bay của giặc, mọc TN CN VN VN lên/ những bông hoa tím. CN => Câu ghép |
Từ phía chân trời trong làn sương mù / mặt trời buổi sớm / đang từ từ mọc lên.=> Câu đơn TN CN VN |
Giữa đồng bằng xanh ngắt lúa xuân / con sông Nậm Rốm / trắng sáng có khúc ngoằn ngoèo, TN CN VN có khúc trườn dài.=> Câu đơn |
Rải rác khắp thung lũng / tiếng gà gáy / râm ran.=> Câu đơn TN CN VN |
Mỗi lần Tết đến, đứng trước những cái chiếu bày tranh làng Hồ giải trên các lề phố Hà Nội / TN lòng tôi / thấm thía một nỗi biết ơn đối với những người nghệ sĩ tạo hình của nhân dân. => Câu đơn CN VN |
Hồi còn đi học / Hải / rất say mê âm nhạc.=> Câu đơn TN CN VN |
Học quả / là khó khăn vất vả.=> Câu đơn |
Tiếng cá quẫy / tũng toẵng xôn xao quanh mạn thuyền.=> Câu đơn CN VN |
Những chú gà nhỏ / như những hòn tơ lăn tròn trên bãi cỏ.=> Câu đơn CN VN |
Sau những cơn mưa xuân / một màu xanh non ngọt ngào, thơm mát / trải ra mênh mông trên TN CN VN khắp các sườn đồi.=> Câu đơn |
Chiếc lá thoáng tròng trành / chú nhái bén / loay hoay cố giữ thăng bằng rồi chiếc thuyền đỏ TN CN VN thắm lặng lẽ xuôi dòng.=> Câu đơn
|
Chiều nào cũng vậy / con chim hoạ mi / không biết từ phương nào bay đến đậu trong bụi tầm TN CN VN xuân ở vườn nhà tôi mà hót.=> Câu đơn |
a. Buôn tảo bán tần
Chỉ đến những người phụ nữ tần tảo, cần mẫn buôn bán, làm ăn, chịu thương chịu khó kiếm kế sinh nhai.
b. Dây mơ rễ má
Tả về mối quan hệ trong xã hội dắt dây nhau theo chiều chiều hướng .
c. không có thành ngữ
1. Nó không được học hành, lại không nhà không cửa, giờ chỉ tính chuyện tạm bợ trước mắt, ăn xôi ở thì cho qua tháng này.
2. Chúng ta phải yêu thương nhau phòng khi tối lửa tắt đèn có nhau.
3. Chú mày hôi như cú mèo, ta nào chịu được.
1. Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.
Ví dụ: Lên thác xuống ghềnh, Mưa to gió lớn.
2. Nghĩa của thành ngữ có thể bắt nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thường thông qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, so sánh, …
Ví dụ: – Tham sống sợ chết, Bùn lầy nước đọng.
– Lòng lang dạ thú, Khẩu Phật tâm xà, Nhanh như chớp.
3. Thành ngữ có thể làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu hay làm phụ ngữ trong cụm danh từ, cụm động từ, …
Ví dụ
– Người này khỏe như voi (vị ngữ)
– Lời ăn tiếng nói biểu lộ văn hóa của con người (chủ ngữ)
– Khi tắt lửa tối đèn (phụ ngữ trong cụm danh từ)
– Các lang mang sơn hào hải vị (phụ ngữ trong cụm động từ)
4. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.
Ví dụ: – Bảy nổi ba chìm trong câu thơ của Hồ Xuân Hương.
– Tắt lửa tối đèn trong câu văn của Tô Hoài.
B. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
I. Thế nào là thành ngữ
– Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.
Ví dụ:
Giấu đầu hở đuôi, Khôn nhà dại chợ, Thua keo này bày keo khác…
Thành ngữ có một số đặc điểm sau:
– Về mặt cấu tạo, các yếu tố trong thành ngữ có quan hệ chặt chẽ, cố định, tạo thành một khối vững chắc, khó có thể chêm xen một yêu tố khác từ ngoài vào.
Ví dụ: Không thể nói muốn an phận thì phải thủ thường mà chỉ nói an phận thủ thường.
Tuy nhiên, có một số ít thành ngữ vẫn có thể có những biến đổi nhất định.
Ví dụ: Thành ngữ đứng núi này trông núi nọ có những biến đổi như đứng núi này trông núi khác, đứng núi nọ trông núi kia…
– Về mặt ý nghĩa: Nghĩa của thành ngữ có thể bắt nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thông thường thông qua một sô”phép chuyển nghĩa như: ẩn dụ, so sánh, nói quá…
Ví dụ:
+ Nghĩa đen (miêu tả): nhắm mắt xuôi tay, đè đầu cưỡi cổ, bảy nổi ba chìm, tay bế tay bồng…
+ So sánh: ăn như tằm ăn rỗi, hiền như bụt, đen như cột nhà cháy, hôi như chuột chù…
+ Ẩn dụ: có bột mới gột nên hồ, ruột để ngoài da, dầm mưa dãi gió, ăn tuyết nằm sương…
+ Nói quá: đi guốc trong bụng, vắt cổ chày ra nước, một tấc lên trời…
1. Nhận xét về cấu tạo cụm từ lên thác xuống ghềnh trong câu ca dao:
Nước non lận đận một mình,
Thăn cò lên thác xuống ghênh bấy nay.
a) Trong câu ca dao trên, không thể thay thế một vài từ trong cụm từ này bằng những từ khấc, không thế chêm xen một vài từ khác vào cụm từ, cũng không thế thay đổi vị trí của các từ trong cụm từ.
b) Cụm từ lên thác xuống ghềnh là một thành ngữ. về cấu tạo, các yếu tố trong thành ngữ này có quan hệ chặt chẽ, cố định, tạo thành một khối vững chắc, khó có thể chêm xen một yếu tố khác. Không thể nói lên trên thác xuống dưới ghềnh.
2. a) Lên thác xuống ghềnh có nghĩa là: trải qua nhiều khó khăn, vất vả mới vượt qua được, tượng trưng cho nỗi gian truân, nguy hiểm.
b) Nhanh như chớp có nghĩa là: rất nhanh, thường để ví với tốc độ, hành động, sở dĩ nói nhanh như chớp là vì chớp là ánh sáng loé mạnh lên rồi tắt ngay, thường là rất nhanh.
II. Sử dụng thành ngữ
– Khi nói và viết, nếu biết vận dụng thành ngữ, câu văn câu thơ trở nên hàm súc, hình tượng và biểu cảm.
Ví dụ:
Non xanh nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt chè tươi mặc sức say.
(Hồ Chí Minh)
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước vẫn còn thề xưa.
(Tản Đà)
Thành ngữ có thể làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu hay làm phụ ngữ trong cụm danh từ, cụm động từ…
Ví dụ:
+ Làm chủ ngữ:
Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi.
(Nguyễn Du)
+ Làm vị ngữ:
Yêu nhau bốc bải giần sàng,
Ghét nhau đũa ngọc mâm vàng bỏ đi.
(Ca dao)
+ Làm phụ ngữ cho cụm danh từ:
Tính nó ruột để ngoài da để ý làm gì.
+ Làm phụ ngữ cho cụm động từ:
Máu rơi thịt nát tan tành
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
(Nguyễn Du)
1. Xác định vai trò ngữ pháp của thành ngữ sau trong các câu sau:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
(Hồ Xuân Hương)
Thành ngữ “Bảy nổi ba chìm” trong câu thơ trên có vai trò ngữ pháp là làm vị ngữ cho câu.
Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang nhà anh, phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang…
(Tô Hoài)
Thành ngữ Tắt lửa tối đèn trong câu trên có vai trò ngữ pháp là làm phụ ngữ trong cụm động từ.
2. Cái hay của việc dùng thành ngữ trong hai câu trên là:
– Việc dùng thành ngữ “Bảy nổi ba chìm” trong câu thơ của Hồ Xuân Hương giúp cho câu thơ có tính hình tượng cao. Và điều này cũng giúp cho người đọc cảm nhận rõ hơn thân phận ngưòi phụ nữ trong thời phong kiến
– Việc dùng thành ngữ “Tắt lửa tối đèn” trong câu văn của Tô Hoài giúp cho câu văn có tính hình tượng hoá và tính biểu cảm cao.
B. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
1. Bài này nêu ra hai yêu cầu:
– Tìm các thành ngữ trong các câu trích dẫn trong SGK, trang 145.
– Giải thích nghĩa các câu thành ngữ đó.
a) “Đến ngày lễ Tiền Vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng tới, chang thiếu thứ gi”. (Bánh chưng, bánh dày)
Câu a có hai thành ngữ:
– Sơn hào hải vị (sơn: núi; hào: món ăn ngon từ động vật; hải: biển; vị: đặc tính của thức ăn, thức uông mà ta cảm thấy khi nếm): những món ăn lấy từ trên rừng, dưới biển, quý và sang trọng.
– Nem công chả phượng (nem công: là loại nem bằng thịt chim công, chả phượng: là loại thịt bằng thịt chim phượng): những món ăn sang trọng, quý hiếm.
b) Một hôm, có người hàng rượu tên là Lí Thông… hắn nghĩ bụng: “Người này khỏe như voi… Sớm mồ côi cha mẹ, tứ cố vô thân…”
– Tứ cô vô thân: (tứ: bốn; cố: nhìn; vô: không; thân: thân thích): cô độc, lẻ loi, không có người thân thích, không nơi nương tựa.
– Khoẻ như voi: rất khoẻ.
c) Chốc đà mười mấy năm trời / Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
Câu thơ trên có một thành ngữ: Da mồi tóc sương, (da mồi: da mốc lốm đốm màu nâu nhạt như vẩy con đồi mồi; tóc sương: thường tượng trưng cho sự sống lâu): người già, tuổi cao.
2. Bài tập này yêu cầu các em kể vắn tắt các truyền thuyết về ngụ ngôn tương ứng để thấy rõ lai lịch của các thành ngữ: con Rồng cháu Tiên, ếch ngồi đáy giếng, thầy bói xem voi.
Con Rồng cháu Tiên
Tổ tiên người Việt xưa là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Lạc Long Quân thuộc loài Rồng, con trai thần Long Nữ kết duyên cùng Âu Cơ thuộc họ Thần Nông, giống Tiên ở vùng núi cao phương Bắc, sau đổ, Âu Cơ có mang và đẻ ra một bọc trăm trứng, trăm trứng nở ra một trăm con người. Lạc Long Quân vốn quen ở nước, nên đã cùng Âu Cơ chia năm mươi người con xuống biển, năm mươi người con lên rừng. Người con trưởng được chọn làm vua, gọi là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu. Biết ơn và tự hào về dòng giống của mình, người Việt tự xưng là con Rồng, cháu Tiên.
Ếch ngồi đáy giếng
Một con ếch sống lẩu ngày trong một cái giếng, xung quanh là những con vật nhỏ bé. Nó cứ tưởng bầu trời chỉ bé bằng chiếc vung và nó là chúa tể. Một năm nọ, trời mưa, nước dềnh lên, nước tràn, ếch được ra ngoài. Nó đi lại nghênh ngang không thèm để ý xung quanh nên bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.
Thầy bói xem voi
Xưa có năm ông thầy bói mù phàn nàn không biết hình thù con voi như thế nào. Các thầy quyết định chung tiền biếu người quản voi để được xem voi. Mỗi thầy sờ một bộ phận của con voi và đưa ra kết luận của riêng mình. Không ai chịu ai, thành ra đánh nhau toác đầu, chảy máu.