Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
3.a) Sai vì thiếu chủ ngữ, vị ngữ.
Sửa lại: Giữa hồ có một tòa tháp cổ kính đã nhuốm màu rêu phong.b) Chỉ có trạng ngữ, thiếu chủ ngữ, vị ngữ.
Sửa lại: Trải qua mấy nghìn năm đấu tranh chống ngoại xâm, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
c) Chỉ có trạng ngữ, thiếu chủ ngữ, vị ngữ.
Sửa lại: Cầu Long Biên là nhân chứng sống nhằm ghi lại những chiến công lịch sử… chiến tranh ác liệt.
4.
a) Sử dụng sai và thừa quan hệ từ “và”
Sửa thành: Cây cầu đưa những chiếc xe vận tải nặng nề vượt qua sông, nó bóp còi rộn vang cả dòng sông yên tĩnh.
b) Phần vị ngữ được đặt sai vị trí.
Sửa thành: Thúy vừa đi học về, mẹ đã bảo sang đón em.
c) Thiếu chủ ngữ.
Sửa thành: Khi em đến cổng trường thì Tuấn gọi em và em được bạn ấy cho một cây bút mới.
Khái niệm: Tự sự (kể chuyện) là phương thức trình bày một chuỗi cácsự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc thể hiện một ý nghĩa. - Tự sự giúp người kể giải thích sự việc, tìm hiểu con người, nêu vấn đề và bày tỏ thái độ khen, chê
(1)
a)Người nghe muốn biết một câu chuyện ,mong muốn được nghe kể chuyện. Người kể phải kể một câu chuyện.
b)Muốn biết Lan là một người tốt,người kể phải nói đượctừng việc cụ thể để làm rõ điều đó .Nếu người kể chuyện , kể những chuyện khác mà không liên quan tới việc thôi học của An thì câu chuyện ấy chưa có ý nghĩa. Bởi người đọc chưa được nghe thông báo về sự việc ấy,chưa được ai giải thích các sự việc.
(2)chuyện Thánh Gióng kể về:
-cậu bé làng Gióng .
-Thời hùng vương thứ sáu
-Gióng đánh giặc Ân cứu nước
-diễn biến:+Ra đời kì lạ
+lớn bổng phi thường
+đánh giặc
+về trời
-kết quả +gióng tiêu diệt giặc
+bay về trời
-ý nghĩa :+là người anh hùng cứu nước
+Là biểu tượng của lòng yêu nước
*truyện Thánh Gióng ca ngợi công đức của vị anh hùng làng gióng (xem phần Ý nghĩa trên)tớ chỉ soạn thế thôi chúc bạn học tốt nha!
Tôi được sinh ra trong một dân tộc giàu truyền thống yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Từ bao đời, bao thế hệ đều có những người anh hùng xả thân bảo vệ non sông, độc lập của dân tộc. Là một người con của quê hương Việt Nam nên tôi cũng mang trong mình tình yêu, sự hiên ngang, bất khuất không chịu nhường bước trước kẻ thù. Khi giặc Ân kéo vào nước ta, trước sự ủng hộ, động viên của bố mẹ, hàng xóm và con người Việt Nam thì tôi đã lên đường đánh giặc, đánh đuổi quân Ân, mang lại độc lập cho dân tộc. Và mọi người thường gọi tôi với cái tên Thánh Gióng.
So với những đứa trẻ cùng trang lứa khác thì tôi có sự khác biệt, bởi nếu những đứa trẻ khác đến ba tuổi thì có thể cười đùa và nói những câu đơn giản. Nhưng khi đến ba tuổi thì tôi lại hoàn toàn trái ngược, tôi không cười, không nói, điều này trở thành câu chuyện kì lạ truyền tai trong hàng xóm, láng giềng. Còn bố mẹ tôi cũng rất buồn phiền, lo lắng, nhưng không vì vậy mà chán ghét hay ruồng bỏ tôi, bố mẹ tôi dành trọn tình yêu, sự quan tâm để nuôi dưỡng tôi mỗi ngày. Thời đại tôi sống có nhiều biến loạn, đặc biệt lên trong số đó, chính là nạn giặc ngoại xâm.
Năm ấy, quân Ân ở Trung Hoa kéo sang xâm lược với mưu đồ thôn tính đất nước ta, cũng vì vậy mà cuộc sống của người dân trở nên vô cùng khốn khổ, chúng hoành hành ngang ngược, bóc lộc, cướp bóc tài sản của nhân dân một cách vô lí. Chúng coi thường pháp luật, hiên ngang bành trướng thế lực của mình. Trước sự hống hách của quân giặc, sự lầm than khổ sở của người dân, triều đình phong kiến đã gấp rút cử sứ giả đi khắp nơi trong nước để tìm kiếm những người tài giỏi, những con người tài trí có thể giúp nước vượt qua nạn ngoại xâm.
Khi sứ giả đi ngang qua làng, tiếng nói vang vọng khắp các ngõ ngách, nó khẩn khiết đến mức tôi vốn là một đứa trẻ không nói không cười dù đã lên ba lần đầu cất tiếng nói. Tôi còn nhớ rất rõ, câu nói đầu tiên của cuộc đời mình, đó là “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”, lúc ấy mẹ tôi rất bất ngờ, vui sướng vì đứa con của mình cuối cùng cũng có thể cất tiếng nói như bao đứa trẻ bình thường khác, nhưng cùng với đó là sự hoảng sợ, lo lắng, vì tội khi quân là tội mất đầu. Ban đầu mẹ tôi còn do dự nhưng trước sự thuyết phục da diết của tôi thì cuối cùng mẹ cũng ra ngoài mời sứ giả vào.
a. Đoạn 1 được kể theo ngôi thứ 3.
Dấu hiệu để nhận ra điều đó: người kể gọi tên nhân vật bằng chính tên của chúng (vua, em bé, cha, chim sẻ…) ⟹ thể hiện sự giấu mình đi.
b. Đoạn 2 được kể theo ngôi thứ nhất.
Dấu hiệu nhận ra điều đó: nhân vật Dế Mèn tự xưng là “tôi”.
c. Người xưng “tôi” trong đoạn 2 là Dế Mèn.
d. Trong hai ngôi kể, ngôi kể thứ 3 có thể kể tự do, không bị hạn chế còn ngôi kể thứ nhất chỉ kể những gì mình biết và trải qua.
đ. Đổi ngôi trong đoạn 2 thành đoạn 3, thay “tôi” bằng “Dế Mèn” thì đoạn văn mới có nhiều tính khách quan hơn.
e. Không nên đổi ngôi kể thứ 3 của đoạn văn 1 thành ngôi kể thứ nhất, xưng tôi vì nếu đổi thì phải cấu tạo lại hầu như cả đoạn văn, phá vỡ cách kể ban đầu và nội dung chuyện cũng phải thêm bớt.
Em cảm nhận được vẻ đẹp phong phú, hùng vĩ của thiên nhiên và sức mạnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ
Nàng Thu dịu dàng nhường chỗ cho cô em gái út tinh nghịch tới, nàng Đông. Ông mặt trời từ từ chui vào chăn ấm ngủ một giấc miết mải. Cũng vì lẽ đó mà bộ váy của chị mây dần chuyển sang gam màu xám nhẹ, còn những bạn gió nay đã bớt ham chơi, quay về cần mẫn thay lớp lá già úa cho cây cối.
Lê Lợi nhận gươm ở Thanh Hóa nhưng lại trả gươm ở Hồ Gươm - Thăng Long. Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết này sẽ bị giới hạn. Bởi vì lúc này, Lê Lợi đã về kinh thành Thăng Long là thủ đô, tượng trưng cho cả nước. Việc trả gươm diễn ra ở hồ Tả Vọng của kinh thành Thăng Long mới thể hiện hết được tư tưởng yêu hòa bình và tinh thần cảnh giác của cả nước, của toàn dân.
Câu 3:
Những động từ và tính từ được dùng qua năm lần, theo mức độ tăng tiến: từ gợn sóng đến nổi sóng.
Hình ảnh của con sóng mỗi lúc một thay đổi: êm ả → nổi sóng → nổi sóng dữ dội → nổi sóng mù mịt → nổi sóng ầm ầm.
ý nghĩa biểu tượng: Sóng là thái độ giận dữ của biển khơi càng tăng trước thái độ tham lam ngày càng quá quắt của mụ vợ ông lão.
Câu 4:
Ở phần (a) là sự thay đổi các tính từ: sứt mẻ → mới → sứt mẻ.
Ở phần (b) là sự thay đổi các danh từ và tính từ: túp lều (nát) → ngôi nhà (đẹp) → lâu đài (to lớn) → cung điện (nguy nga) → túp lều (nát ngày xưa)
Hình ảnh đầu - cuối giống nhau kết cấu vòng tròn (từ không → có, rồi trở về → không)
cám ơn bạn nhiều