K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 9 2018

Những yếu tố biểu cảm trong phần I - Chiến tranh và "Người bản xứ" được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập nhau, hoặc mang tính chất mỉa mai, châm biếm.

  Những yếu tố biểu cảm trong " Chiến tranh và người bản xứ" ( Thuế máu) được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập hoặc mang tính chất mỉa mai châm biếm.

    + Những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu >< những đứa con yêu và những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do.

    + Chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột >< đột ngột lìa xa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường.

    + Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.

    + Bỏ xác tại những miền hoang vu, thơ mộng.

    + Lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy.

    + Khạc ra từng miếng phổi.

  - Tác dụng của những từ ngữ này:

    + Giúp người đọc thấy được bản chất lọc lõi, lừa đảo và bộ mặt thâm độc, quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa làm bia đỡ đạn cho chúng.

16 tháng 3 2022

Trong khổ thơ thứ hai của bài thơ "Quê Hương" của tác giả Tế hanh, tác giả đã khắc họa chân thực, sinh động khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Mở đầu vào một ngày mới sắp bắt đầu thì người dân làng chài đã chuẩn bị để ra khơi đánh cá. Ấn tượng nhất là khung cảnh trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Nó đã trở thành một phông nền sáng, đậm nét cho con thuyền tiến vò cái đẹp tràn ngập khung cảnh thiên nhiên. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê để giúp chúng ta cảm nhận, hình dung được khung cảnh thiên nhiên với một bầu trơi trong xanh cùng những làn gió nhẹ nhàng, những ánh hồng rực rỡ. Những dấu hiệu thời tiết thuận lợi cho một buổi ra khơi đầy thuận lợi với những mẻ cá bội thu. Nhưng sống động hơm nữa chính là hình ảnh dân trai tráng. Họ "bơi thuyền đi đánh cá" với tất cả ý chí, niềm tin. Cảnh ra khơi đã miêu tả gián tiếp con thuyền. Đó là "chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã". Không những vậy con thuyền đã ẩn dụ cho vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân làng chài. Đoạn thơ đã sử dụng hình ảnh so sánh, liệt kê giản dị để từ đó miêu tả ra một làng chài vào buổi sớm. Từ đây,đoạn thơ thứ hai đã cho chúng ta thấy được tầm vóc của những người dân làng chài  trong hành trình chinh phục thiên nhiên.

Chúng ta biết Vũ Đình Liên - nhà thơ mới tiên phong cùng với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông... chỉ với 2 bài Lòng ta là những hàng thành quách cũ và Ông đồ. Thơ ông là sự hội nhập, kết tụ và thăng hoa hai nguồn thi cảm: lòng thương người và niềm hoài cổ - như Hoài Thanh đã chỉ ra. Xúc cảm thật chân thành, lắng sâu biểu hiện trong những câu thơ thật tự nhiên, bình dị.
 
Chỉ bằng 20 câu, 100 chữ, không hơn, nhà thơ đã đủ dựng lên bóng dáng của một thời tàn với lòng cảm thương, ân hận, nhớ tiếc khôn nguôi.
 
Đầu thế kỉ XX, văn minh phương Tây (Pháp) xâm nhập mạnh vào Đông Dương. Hán học ngày càng bị lép vế và bị hủy bỏ (1918). Các nhà nho, dù khoa bảng hay không đỗ đạt đều ngày càng xuống giá chỉ còn vang bóng một thời. Hình ảnh ông đồ, môn đệ chưa thành đạt nơi cửa Khổng sân Trình làm nghề dạy học, ở các làng quê, cũng chẳng làm mấy ai quan tâm đến nữa. Ông chỉ xuất hiện vào những dịp cuối năm, giáp Tết, đầu năm, đầu xuân trên các vỉa hè đường phố Văn miếu, Bà Triệu, phố Huế... để viết chữ, viết câu đối chữ Hán bán cho những người khách còn quý thứ chữ thánh hiền, đem về treo, trang trí đón Tết, mừng xuân, để thờ, cầu Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh...
 
Bài thơ được cấu trúc theo dòng thời gian, liên tục và đứt quãng, trong thế so sánh đối lập, tương phản. Cứ mỗi năm áp Tết, hoa đào nở rộ, ta lại gặp ông đồ. Giới thiệu thời gian và địa điểm ông đồ chuẩn bị làm hàng, bán hàng. Ông chỉ thực sự cần thiết cho mọi người vào thời điểm ấy. Giọng thơ kể chuyện, tả cảnh trầm lắng như vẽ lại quy luật cuộc đời. Thời thế đổi thay, ông đồ chỉ còn dịp kiếm ăn bằng cái tài viết chữ Hán - thư pháp tài hoa của mình mà thôi! Bao nhiêu người khen tấm tắc chữ ông đồ đẹp như phượng múa rồng bay, nghĩa là bay bướm, uốn lượn, oai phong, khí phách, sang trọng, tươi tắn... Dù là lời khen của người ngoài cuộc, chẳng làm vẻ vang gì cho ông đồ nhưng cũng là lời an ủi ông già lỡ thời vận mạt. Nếu đặt vào vị trí người đọc, ta vẫn thấy niềm hân hoan sung sướng, trân trọng của người thưởng thức - người sáng tạo - khi đứng trước những bức tranh chữ nho đen nhánh trên nền giấy điều thắm tươi với những nét bút tung hoành của nhà thư pháp. Ta lại thấy dáng ngồi, dáng lưng khom, bàn tay già đưa lên, hạ xuống, nét mặt chăm chú, khắc khổ đậm tô từng nét bút của ông đồ viết thuê. Dù với tư cách thấp khiêm tốn của người bán hàng, bán chữ, nhưng đó vẫn là những ngày, những năm đắt hàng, đắc ý, may mắn của ông đồ. Vì dù lời khen đến đâu, khách hàng càng đông, thì chữ nghĩa thánh hiền và người quân tử bất phùng thời cũng chỉ thể hiện mối quan hệ mua bán sòng phẳng theo lối trả tiền ngay, mặc cả. Chữ nho đã trở thành hàng hóa, dù thanh cao, tao nhã, vẫn là thú chơi, thú vui của những người có tiền.
 
Theo thời gian, quy luật khắc nghiệt không cưỡng được, từ từ nhưng chắc chắn, tiến theo hướng văn minh hiện đại, Âu hóa, mọi người cứ xa dần, nhạt dần với thú chơi xưa. Khách mua chữ, thuê viết chữ mỗi năm mỗi vắng. Câu hỏi: Người thuê viết nay đâu vang lên như tiếng kêu thảng thốt, tội nghiệp, bẽ bàng, não nùng, thất vọng nhưng vẫn cố hi vọng sầu tủi? Không có ai thuê, không được mài mực, đọng bút nên giấy mực hóa bẽ bàng trơ trọi. Chữ đọng vừa có nghĩa là mực đọng, vón lại vì lâu không dùng tới vừa hàm ý kết đọng mối buồn sầu, đau tủi thành khối. Người đọc càng cảm thương cái dáng ngồi bó gối buồn thiu trông đợi lặng câm, lạc lõng giữa dòng đời sắm Tết nao nức đông vui, rộn ràng.
 
Mọi người đã hoàn toàn không để ý tới sự có mặt của ông đồ vì họ thực sự không cần đến ông nữa. Ông đồ cô đơn, ông đồ lạc lõng được gió mưa và lá vàng phụ họa, tô đậm thêm cảnh thê lương. Hai câu thơ tả tình bằng cảnh, qua cảnh đế chiếc lá vàng nằm cong queo, trơ trẽn trên xấp giấy hồng điều và hàng triệu giọt mưa bụi li ti chỉ càng làm cõi lòng ông đồ chán chường, ngậm ngùi, thê thiết trong sự đồng cảm tận cùng của nhà thơ.
 
Đến năm nay thì hoa đào cứ nở khi Tết đến, xuân về, nhưng đã chẳng còn ông đồ xưa. Mới năm ngoái thôi mà đã thành ngày xưa, năm xưa, thành muôn năm cũ. Qui luật khắc nghiệt cứ làm nhiệm vụ của nó một cách lạnh lùng, vô tình. Chỉ có câu hỏi của tác giả, cũng chỉ để hỏi mà thôi! Câu hỏi cuối bài, rõ ràng đâu chỉ hỏi về một ông đồ cụ thể, mà hỏi về những lớp người đã khuất, ở những thời đại đã qua, từng làm nên vẻ đẹp văn hóa cho nước non này. Nhưng theo dòng lịch sử, mỗi người cũng chỉ có một thời của mình. Tất cả chỉ còn là bóng dáng, kỉ niệm trong sự nhớ tiếc của hôm nay. Câu hỏi biểu hiện tâm trạng ân hận, tự trách mình ở thời điểm hiện tại. Cảm giác hẫng hụt của những người đương đại giàu tình thương và tình hoài cổ.
 
Nhưng trong xu thế phục hồi, kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hóa nghệ thuật của cha ông - trong đó có nghệ thuật thư pháp, đã xuất hiện những ông đồ, anh đồ mới bên cạnh một số cụ đồ già hiếm hoi còn sống (cụ Thanh Hoằng Khê Lê Xuân Hòa, Nguyễn Văn Bách, Tú Trần...) đã xuất hiện trở lại, phát huy tài năng, tha hồ múa bút như phượng múa rồng bay trong những ngày xuân, giữa mùa hoa đào nở, trên phố phường Hà Nội đang tưng bừng đón thập kỉ đầu của thế kỉ XXI.

29 tháng 4 2018

Năm 1925, tác phẩm "Bán án chế độ thực dân Pháp" của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp được xuất bản tại Pari. Tác phẩm đã tố cáo và kết án những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp, đồng thời phản ánh cuộc sống tủi nhục, đau thương của những người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới". Đoạn trích "Thuế máu" rút trong Chương I "Bản án chế độ thực dân Pháp" với nhan đề "Thuế máu" rất độc đáo, có giá trị tố cáo tội ác của bọn thực dân một cách đanh thép. Các tiêu đề bổ sung như: 1. Chiến tranh và người bản xứ: 2. Chế độ lính tình nguyện; 3. Kết quả của sự hi sinh - đã làm nổi rõ cái thứ vô cùng kì lạ và vô nhân đạo. Những người An-nam-mít, những nô lệ da đen phải làm bia đỡ đạn cho bọn thực dân Pháp và bị đối xử một cách vô cùng dã man. Ta hãy tìm hiểu và phân tích mục "Chiến tranh và người dân bản xứ".

Trước khi có chiến tranh thì những thanh niên "bản xứ" chỉ là "những tên da đen bẩn thỉu", "những tên An-nam-mít bẩn thỉu" chi biết làm cu-li kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị da trắng. Nhưng khi chiến tranh vừa bùng nổ, bọn thục dân đã xảo quyệt dùng mọi thủ đoạn lừa mị, bịp bợm biến nhũng kẻ khốn nạn ấy thành "con yêu " bạn hiền của các quan cai trị "phụ mẫu nhân hậu", của các quan "toàn quyền lớn, toàn quyền bé", họ được phong cho các danh hiệu tối cao là bảo vệ công lí và tự do. Tác giả đã sử dụng thủ pháp tương phản để vạch trần giọng lưỡi, thủ đoạn bịp bợm quắt quay của bọn thực dân trong việc bắt nô lệ "bản xứ" làm bia đỡ đạn, một cách đánh "thuế máu" vô cùng xảo quyệt. Các từ ngữ như "chiến tranh vui tươi" ,"lập tức họ biến thành", "đùng một cái", "được phong cho cái danh hiệu tối cao" đã làm cho giọng văn châm biếm trở nên sâu cay, mỉa mai. Nguyễn Ái Quốc đã gợi lên những mất mát đau thương của nhũng thanh niên bản xứ bị bắt đi làm bia đỡ dạn. Họ phải "xa vợ con, phải "rời bỏ" quê hương, mảnh ruộng, đàn cừu. Họ đi "phơi thây" trên các bãi chiến trường châu Âu. Có biết bao cảnh chết chóc thương tâm. Chết vì thủy lôi, "được xuống tận đáy biển để bảo tổ quốc của các loài quỷ quái". Bị "đem nướng", đã "bỏ xác" tại các vùng hoang vu Ban-căng, để " lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiêm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ". Xương máu của họ, cái chết của họ thật vô nghĩa, hoặc "anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát" trên bờ sông Mác-nơ, trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ, hoặc "lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy" hoặc "lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế". Tác giả đã kết hợp miêu tả với bình luận để mỉa mai, châm biếm cái "thuế máu" của bọn thực dân. Những người lính thợ không bị bỏ xác trên các bãi chiến trường thì lại bị đầu độc, phải lao động khổ sai, "làm kiệt sức" trong các xưởng thuốc súng ghê tởm "nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối". Những kẻ khốn khổ ấy "đã khạc ra từng miếng phổi" chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy ! Đó là một sự "trả giá" rùng rợn của "dân bản xứ" đối với chiến tranh. Những con số dưới ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thật sự Bảy mươi vạn người bản xứ bị đánh thuế máu, và trong số ấy có tám vạn người đã chết đau đớn, vô nghĩa không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Đọc mục "Chiến tranh và người dân bản xứ trong chương ta vô cùng xúc động trước số phận đau thương của những bản xứ, những nô lệ da đen, da vàng đã phải nộp "thuế máu" cho bọn thục dân Pháp trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng sắc sảo các thủ pháp nghệ thuật như tương phản đối lập, kết hợp miêu tả với bình luận, nêu lên những con số, những sự thực, đặc biệt tạo nên lững lời văn, giọng văn chua cay để vạch trần, để lên án, để châm biếm loại "thuế máu" một trong những hình thức bóc lột dã man nhất của thực dân Pháp. Trong suốt 80 năm thống trị nước ta, thực dân Pháp đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí , bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ. Sưu thuế dã man đã làm tan nát, điêu linh bao gia đình. Ta quên sao được hình ảnh anh Dậu "bị trói như gió để giết thịt", chú Hợi đã chết từ năm ngoái vẫn "không trốn được nợ nhà nước".Chị Dậu phải bán con, bán chó để nộp sưu cho chồng. Nhưng khi đọc chương 'Thuế máu" trong "Bản án chế độ thực dân Pháp", ta vô cùng kinh khủng về bộ mặt ghê tởm của bọn thực dân Pháp. là một trong những tội ác tày trời của chúng. "Thuế máu" đã bóc trần luận điệu "khai hoá", "bảo hộ" của thực dân Pháp

19 tháng 4 2023

tham khảo ở đây nha

https://olm.vn/hoi-dap/detail/107591441723.html

Lí Công Uẩn là một vị vua anh minh , có tầm nhìn xa trông rộng. Ông đã nhận ra địa thế ''rồng cuộn hổ ngồi '' của thành Đại La (Thăng Long) và sự chật hẹp, cô lập của kinh đô Hoa Lư. Chứng tỏ ,Lí Công Uẩn là người am hiểu về địa lí. Ông còn là người hiểu biết , thông thạo về lịch sử. Trong bài '' Chiếu dời đô'' ,ông đã lấy ví dụ về việc dời đô của nhà Thương ,nhà Chu để làm gương bởi nhà Thương ,Chu đều là những triều đại phồn thịnh, tồn tại lâu dài trong lịch sử Trung Quốc . Ông còn phê phán việc nhà Đinh , nhà Lê không chịu dời đô , cứ đóng đô ở Hoa Lư chật hẹp. Vì vậy , nên triều Đinh , Lê không tồn tại được lâu . Ngoài ra, Đại La cũng là kinh đô cũ của Cao Vương . Theo Lí Công Uẩn , việc dời đô là thực sự cần thiết , rất quan trọng với vận mệnh đất nước. Nhờ kinh nghiệm của mình, ông đã dự đoán được sự thuận lợi của thành Đại La , giúp đất nước phát triển phồn thịnh.

 

20 tháng 4 2023

cảm ơnn nhiềuuu ạa