Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Lời của người kể chuyện cũng chính là những thắc mắc, những suy nghĩ nội tâm của nhân vật
⇒ Làm rõ tâm trạng của nhân vật Thanh
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ văn bản Dưới bóng hoàng lan.
- Đọc kĩ đoạn văn chưa lời của người kể chuyện và lời độc thoại nội tâm của nhân vật.
- Lưu ý về sự đan xen giữ lời của người kể chuyện và lời độc thoại của nhân vật.
Lời giải chi tiết:
- Lời của người kể chuyện là những câu hỏi gợi mở cảm xúc của nhân vật, mở ra diễn biến tiếp theo của câu chuyện, còn lời độc thoại nội tâm chính là câu hỏi nghi vấn mà Thanh tự hỏi bản thân mình, là suy nghĩ bên trong của Thanh.
- Lời của người kể chuyện và lời độc thoại nội tâm của nhân vật có sự xen kẽ với nhau, người đọc dễ bị nhầm lẫn hai câu với nhau và có thể hiểu sai dụng ý của tác giả.
- Sự đan xen hai lời kể, lời nói góp phần làm rõ hơn về tâm trạng của Thanh, gợi sự tò mò về người mà Thanh nghe tiếng thấy quen và từ đó mở ra diễn biến tiếp theo của câu chuyện.
- Lời của người kể chuyện là những câu hỏi gợi mở cảm xúc của nhân vật, mở ra diễn biến tiếp theo của câu chuyện, còn lời độc thoại nội tâm chính là câu hỏi nghi vấn mà Thanh tự hỏi bản thân mình, là suy nghĩ bên trong của Thanh.
- Lời của người kể chuyện và lời độc thoại nội tâm của nhân vật có sự xen kẽ với nhau, người đọc dễ bị nhầm lẫn hai câu với nhau và có thể hiểu sai dụng ý của tác giả.
- Sự đan xen hai lời kể, lời nói góp phần làm rõ hơn về tâm trạng của Thanh, gợi sự tò mò về người mà Thanh nghe tiếng thấy quen và từ đó mở ra diễn biến tiếp theo của câu chuyện.
- Ở phần mở đầu, Xúy Vân xuất hiện với những tiếng hát và hành động quay cuồng, tâm trạng nửa tỉnh nửa mê, nửa ngây nửa dại. Xúy Vân đã cất tiếng hát than thở với bà Nguyệt về tình duyên của mình, sau đó Xúy Vân đã mượn hình ảnh con đò tình duyên để nói về mình, một người phụ nữ mòng mỏi chờ chồng, hạnh phúc dang dở.
“Tôi là đò, đò nỏ có thưa
Tôi càng chờ, càng đợ, càng trưa chuyến đò”
- Tuy lời hát xuất phát từ trạng thái nửa tỉnh nửa ngây nhưng qua lời hát ấy vẫn thấy tâm trạng đầy đau khổ, day dứt của một cô gái đang lo lắng trước tuổi xuân đang trôi qua, hình ảnh của cô gái ấy như một người lữ khách đứng trên bến đò vắng nhưng chưa thấy bóng dáng con đò.
- Ở những câu hát tiếp theo, dưới hình thức của những câu thơ lục bát biến thể, Xúy Vân đã thể hiện được tâm trạng của một người con gái đã có chồng, tự do bị trói buộc, mọi thứ đều phải phụ thuộc vào chồng. Muốn qua sông lần nữa thì phải dứt bỏ tình duyên cũ với chồng:
“Chẳng nên gia thất thì về
Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười”
→ Luôn khát khao tình yêu và có một niềm tin mãnh liệt vào một tương lai đầy hạnh phúc với tình nhân mới củy mình.
“Gió giăng thì mặc gió giăng
Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau”
- Hình ảnh Xúy Vân mạnh mẽ tìm đến tình yêu của mình đã từng bị coi là hành vi phá bỏ những giá trị đạo đức phong kiến, phá vỡ đạo tam tòng tứ đức, trở thành một người nổi loạn chẳng quá cũng vì quá khát khao tình yêu và đắm chìm trong tình yêu ấy đến nỗi không thể thoát ra được.
- Hình thức lời Kiều nói với Thúy Vân. Lắng nghe kĩ sẽ thấy như Kiều đang nói với chính bản thân mình, có lúc nói với Kim Trọng
- Việc chuyển đối tượng thể hiện khả năng nắm bắt một cách tinh tế quy luật diễn biến tâm trạng nhân vật
- Đối thoại với Thúy Vân
+ Dùng từ “cậy” và “chịu” cùng cử chỉ “lạy” Kiều coi việc em nhận lời là một sự hi sinh của em, nên Kiều đã “lạy” lấy sự hi sinh ấy
- Thúy Kiều tâm sự, giãi bày với em để em hiểu hoàn cảnh của nàng bấy giờ
- Kiều an ủi, động viên em và nhắc tới tình nghĩa chị em, thân thiết để nhờ cậy em
→ Nguyễn Du để Kiều thể hiện bằng ngôn ngữ lí trí, Kiều đưa ra lập luận vừa có lí, vừa có tình, khẩn thiết khiến Vân không thể từ chối
- Với bản thân
Tâm trạng Kiều trải qua những giằng xé mâu thuẫn, đau đớn khi phải trao kỉ vật cho Thúy Vân
+ Từ “của chung” thể hiện mâu thuẫn, xót xa trong lòng Kiều khi nghĩ tới tình cảm với Kim Trọng
+ Kiều rơi vào tuyệt vọng, đau thương, nàng nghĩ tới cái chết vì nỗi đau xa lìa người yêu
Đối thoại với Kim Trọng trong tưởng tượng, lời tâm sự chưa nhiều mâu thuẫn
+ Khát vọng giữ tình yêu mãnh liệt trước hiện thực phũ phàng
Hai câu thơ cuối là lời gọi Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng
Nội dung của đoạn trích là Kiều trao duyên cho em gái nên về hình thức là Kiều đối thoại với Thúy Vân. Nếu để cho Thúy Kiều chỉ đối thoại với Thúy Vân thì cảm xúc của nhân vật không đạt tới cao trào, bi kịch của thân phận và tình yêu không được đẩy tới điểm đỉnh, nhân cách cao đẹp của nàng cũng không có điều kiện bộc lộ. Vì vậy, Nguyễn Du đã để cho Kiều không chỉ nói chuvện với Vân mà có lúc Kiều chuyển đối tượng, như đang đối thoại với Kim Trọng và đối thoại với chính mình. Với từng đối tượng đối thoại, Kiều có những tâm trạng khác nhau.
Đối thoại với Thúy Vân, Kiều mang tâm trạng của một người nhờ cậy, chịu ơn và đặt niềm tin vào người em gái có thể thay mình kết duyên cùng chàng Kim.
Qua những từ ngữ và hình ảnh gợi lại kỉ niệm của tình yêu như Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề; Chiếc vành với bức tờ mây; Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân... Kiều như đang nói với chính mình, tình yêu chàng Kim trỗi dậy mạnh mẽ trong nàng và lòng nàng xiết bao đau đớn, xót xa, mất mát.
Khi bi kịch được đẩy lên cao, Kiều hướng lòng mình về với chàng Kim Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Ta duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi: Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Câu cuối cùng được ngắt làm nhiều nhịp và hầu hết là thanh bằng tạo nên cảm giác lòng Kiều tan nát, nàng đang ngất lịm dần trong tiếng kêu xé lòng. Đây chính là tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng của Kiều.
Kiều đối thoại với:
- Thúy Vân (lúc trao duyên): "Cậy em ... thì hay chị về."
- Chính mình: "hồn còn mang nặng ... đền nghì trúc mai"; "bây giờ trâm gãy ... ái ân"; ...
- Kim Trọng: "Trăm nghìn ... hoa trôi lỡ làng".
Diễn biến tâm trạng: Kiều mở đầu màn trao duyên bằng những lời ràng buộc Thúy Vân, nhưng cao trào, bi kịch thân phận và tình yêu của nàng lên đến đỉnh điểm khi nàng nói với chính mình và với Kim Trọng. Kiều trao duyên mà tình không trao được, chia sẻ kỉ niệm tình yêu với Thúy Vân mà không thể nói hết những đớn đau, tuyệt vọng, xót xa. Khi Kiều nói với chính mình cũng là khi nàng xót thương cho thân phận mình, ước mong níu kéo được tình yêu với Kim Trọng. Càng đến cuối đoạn, Kiều càng rã rời đi, đau đớn và tuyệt vọng đến mức muốn tìm đến cái chết - một cái chết đau thương và tủi hổ. Nhưng vì gia đình, nàng không thể làm vậy, trong nỗi khốn khổ khôn cùng, Kiều vẫn tự nhận tất cả lỗi lầm về mình, người "phụ tình chung "với Kim Trọng. Tâm trạng của Kiều từ đau đớn, xót xa đến mâu thuẫn, giằng xé trong tuyệt vọng và tủi hổ với người yêu. Sau khi trao duyên, nàng coi như mình đã chết.
a.
* Đối thoại:
- ĐỀ HẦU: Trộm của Trùm Sò đêm trước/ Vu cho Thị Hến đêm qua/ Bắt tới chốn huyện nha,/ Xin ngài ra xử đoán.
- HUYỆN TRÌA: Lão Đề lấy tờ khai,/ Đặng ta toan làm án/ Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt/ Kẻo hai đàng của nói có, vọ nói không
- THỊ HẾN: Trông ơn quan lớn/ Đoái xét phận hèn/ Phụ mẫu dân quyền quý ấy bề trên/ Ti tiện nữ đơn cô là phận dưới.
* Độc thoại:
- ĐỀ HẦU: Mụ đà nên tệ/ Ông Huyện cũng xằng,/ Phen này ông bày mặt thú lang/ Huếch với mục ắt râu trụi lủi.
* Bàng thoại:
HUYỆN TRÌA: Tri huyện Trìa là mỗ/ Nội hạt tiếng khen khen ta/ Cầm đường ngày tháng vào ra/ Hoa nguyệt hôm mai thong thả.
* Lời chỉ dẫn sân khấu: Hạ.
b. Nhân vật Huyện Trìa có số lượt lời nhiều nhất trong văn bản vì đây là một phiên xử án và thẩm quyền thuộc về Huyện Trìa.
c. Dấu hiệu cho thấy trong lời thoại của nhân vật trong văn bản mang đặc điểm của thơ hoặc văn vần:
Đoạn: Nộ hát tiếng khen khen ta
Cầm đường ngày tháng vào ra
Hoa nguyệt hôm mai thong thả...
=> Đây là đoạn thuộc lời thoại của nhân vật Huyện Trìa và được gieo vần “a”. Đây là một trong những đặc điểm của thể loại thơ.
d. Trong lời thoại của nhân vật, một số từ ngữ được tách riêng ra và đặt trong ngoặc đơn vì đó như đoạn đệm chuyển lời trong tuồng, nâng cảm xúc của nhân vật lên cao và phù hợp với đặc điểm của tuồng.
a.
- Đối thoại:
Đề Hầu : Bắt tới chốn huyện nha,
Xin ngài ra xử đoán..
Huyện Trìa: Thôi ,đây đã biết
Lựa đó phải thưa..
- Độc thoại:
Đế Hầu : -Mụ đà nên tệ
Ông Huyện cũng xằng,
Phen này ông bày mặt thú lang
Huếch với mụ ắt râu trụi lủi
- Bàng thoại: Tri huyện Trìa là mỗ/nội hạt tiếng khen khen ta/ Cầm đường ngày tháng vào ra/Hoa nguyệt hôm mai thong thả''
b. Nhân vật Huyện Trìa có số lượt lời nhiều nhất
- Vì: Huyện Trìa là người cầm cân nảy mực, vừa ba hoa, vừa muốn làm ra vẻ công minh vừa muốn tán tỉnh, lấy lòng Thị Hến, lấn át Đê Hầu, dọa dẫm Trùm Sò,…Huyện Trìa nắm giữ, thích nói gì thì nói, miệng nhà quan có gang có thép,…tác giả dân gian muốn lật tẩu bản chất của y,…Đó có thể là lí do khiến tác giả để nhân vật này nói nhiều nhất, dài nhất.
c. Chỉ ra một số dấu hiệu cho thấy các lời thoại của nhân vật trong văn bản trên mang đặc điểm của thơ hoặc văn vần
''Nội hạt tiếng khen khen ta
Cầm đường ngày tháng vào ra/
Hoa nguyệt hôm mai thong thả''
Đây là gieo vần ''a''. Cách gieo vần đặc trưng trong thơ ca
d. Đây như đoạn đệm chuyển lời trong tuồng, nâng cảm xúc của nhân vật lên cao
Nhân vật | Đối thoại | Độc thoại | Bàng thoại |
Thị Mầu | Đây rồi nhé | Phải gió ở đâu! Chạy từ bao giờ rồi! | Lẳng lơ đây cũng chẳng mòn |
Thị Kính | A di đà Phật! Cô cho tôi biết tên để ghi vào lòng sớ | – A di đà Phật
Một nén cũng biên Một đồng cũng kể | Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc.. |
Tiếng đế
(người xem) | Mười tư, rằm!
Sao lẳng lơ thế, cô Mầu ơi! |
Từ đó ta thấy được
+ Thị Mầu: phóng khoáng, táo bạo, khác biệt với hình ảnh người phụ nữ truyền thống xưa
+ Thị Kính: trầm ổn, dịu dàng,mang mác buồn, hình ảnh đậm vẻ truyền thống của người phụ nữ thời phong kiến dù đã quy y cửa Phật
- Trầm buồn, bi ai.
- Từ tiếng hét trách móc nàng đã bật thành giọt nước mắt hờn tủi.
- Chắp tay lạy như một lời kêu gọi lòng đồng cảm từ cộng đồng, xã hội với mong muốn mọi người hiểu cho mình.
- Gia-ve: lớn tiếng, hách dịch, ra lệnh, quát tháo
- Giăng-văn-giăng: thì thầm, khúm núm, nhún nhường
Chọn đáp án: C