K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 9 2021

Quân đội nhà THanh nha bạn

25 tháng 9 2021

quân Thanh

10 tháng 3 2017

Chọn đáp án: A.

15 tháng 10 2017

Nhà Tây Sơn gồm ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kì đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, những năm cuối thế kỉ XVIII, Lê Chiêu Thông rất lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Quang Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quận Thanh xâm lược nước ta. Nghe được tin cấp báo, Bắc Bình Vương quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.

Ông cho họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại. Theo ý mọi người thì ông nên ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau cất quân ta đánh dẹp cõi Bắc vẫn chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngài khoác lên mình chiếc áo long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu ngài đội mũ miện, cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang. Cuốn sách Các triều đại Việt Nam có viết: “Ngài là người có dung mạo đặc biệt. Tóc quán, da sẫm, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối”. Toát lên trên gương mặt ngài là vẻ cương nghị, oai phong lẫm liệt và dữ tướng. “Không ai dám nhìn thẳng vào mặt ngài”.

Lễ xong, ngài hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh cả thủy lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp, một người có tài tiên đoán, vào hỏi về mưu đánh và giữ, cơ được hay thua. Nguyễn Thiếp trả lời: “Chuyến này ra đi không quá mười ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan”. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng là Hám Hổ Hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, ai cũng có thân hình vạm vỡ, bắp tay cuồn cuộn. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn quân binh tịnh nhuệ, hàng ngũ thẳng tắp, cờ trông rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu. Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn và chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu là số quân ở Thuận Hóa, Quảng Nam, còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại vỗ về quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết thắng của đội quân chính nghĩa.

Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Đêm 30 tháng chạp, vua cho mở tiệc khao quân linh đình, chia quân làm ba đạo và bảo với các tướng đêm 30 lập tức lên đường hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Trong bữa tiệc ai cũng vui mừng, vui chơi thỏa thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra Bắc. Để giữ sức chiến đấu cho binh lính, vua cho dùng cáng làm võng, cứ hai người khiêng một người ngủ, luân phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài ai cũng phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu.

Thấy quân Tây Sơn kéo đến, nghĩa binh của giặc trấn thủ sông Gián chạy nháo nhác, lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy. Vua cho binh lính vây bắt được hết vì vậy quân Thanh không hề có ai chạy về báo tin. Việc tiến quân của quân Tây Sơn hoàn toàn bí mật. Nửa đêm ngày mồng ba tháng giêng, năm Kĩ Dậu (1789), quân Tây Sơn tới đồn ở làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc và lặng lẽ vây kín làng. Vua dùng loa truyền gọi: Quân. Tiếng quân lính luân phiên nhau: Dạ, dạ, ran khắp cả vùng trời để hưởng ứng nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy ai nấy run lẩy bẩy, rụng rời, sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân ta lấy hết.

Vua lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm là một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức, rồi kén hạng lính khỏe mạnh cứ mười người khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác cầm binh khí theo sau, dàn thành hàng ngang. Mờ sáng ngày mồng 5, quân Tây Sơn tiến sát dồn Ngọc Hồi, quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng không có hiệu quả. Tiện có gió Bắc, chúng dùng súng phu khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì cả. Không ngờ trời bỗng trở gió Nam khiến khói bay ngược lại, quân Thanh tự hại mình. Quân ta gấp rút khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai cầm dao ngắn thì đâm quân giặc, người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết, thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.

Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Uyên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông, đến lúc ấy quân Thanh đều hết hồn vía, vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô, quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành. Lại nói, không nghe thấy tin cấp báo nên trong ngày Tết quân Thanh chỉ chăm chú yến tiệc. Nào ngờ cuộc vui chưa tàn cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dặn lính chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ nghe tin hoảng loạn, tan tác bỏ chạy, giành nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống sông chết rất nhiều. Lát sau cầu bị đứt, quấn linh rơi xuống nước đến nỗi sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa.

Quân Tây Sơn ăn mừng chiến thắng. Chiến công đại phá quân Thanh đã chứng tỏ nước Việt Nam là một nước mạnh mẽ, có độc lập, chủ quyền. Chiến thắng này đã khắc họa sâu sắc hình tượng người anh hùng mặc áo vải Nguyễn Huệ với tài mưu lược, ý chí kiên cường đấu tranh. Hàng năm dân ta vẫn tổ chức lễ hội Đống Đa để nhớ đến công lao của ông cha ta thời xưa và ôn lại chiến thắng lịch sử hào hùng của dân tộc đã đại phá quân Thanh thần tốc.

- Nguồn: Kể lại cuộc tiến công thần tốc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung

Nhà Tây Sơn gồm ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kì đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, những năm cuối thế kỉ XVIII, Lê Chiêu Thông rất lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Quang Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quận Thanh xâm lược nước ta. Nghe được tin cấp báo, Bắc Bình Vương quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh.

Ông cho họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại. Theo ý mọi người thì ông nên ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau cất quân ta đánh dẹp cõi Bắc vẫn chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngài khoác lên mình chiếc áo long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu ngài đội mũ miện, cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang. Cuốn sách Các triều đại Việt Nam có viết: “Ngài là người có dung mạo đặc biệt. Tóc quán, da sẫm, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối”. Toát lên trên gương mặt ngài là vẻ cương nghị, oai phong lẫm liệt và dữ tướng. “Không ai dám nhìn thẳng vào mặt ngài”.

Lễ xong, ngài hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh cả thủy lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp, một người có tài tiên đoán, vào hỏi về mưu đánh và giữ, cơ được hay thua. Nguyễn Thiếp trả lời: “Chuyến này ra đi không quá mười ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan”. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng là Hám Hổ Hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, ai cũng có thân hình vạm vỡ, bắp tay cuồn cuộn. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn quân binh tịnh nhuệ, hàng ngũ thẳng tắp, cờ trông rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu. Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn và chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu là số quân ở Thuận Hóa, Quảng Nam, còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại vỗ về quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết thắng của đội quân chính nghĩa.

Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Đêm 30 tháng chạp, vua cho mở tiệc khao quân linh đình, chia quân làm ba đạo và bảo với các tướng đêm 30 lập tức lên đường hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Trong bữa tiệc ai cũng vui mừng, vui chơi thỏa thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra Bắc. Để giữ sức chiến đấu cho binh lính, vua cho dùng cáng làm võng, cứ hai người khiêng một người ngủ, luân phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông Gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài ai cũng phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu.

Tk nhé . Thanks !

11 tháng 10 2017

Mở bài: Tìm 1 cái lý do gì đó để có thể gặp và trò chuyện với ông Quang Trung (vì ổng ở quá khứ mà, thì cách dễ nhất là nằm mơ thấy, cái này dễ viết mà không sáng tạo lắm; muốn sáng tạo hơn thì có thể là một tối trên đường đi chơi về thì bị lạc, xong rồi trời mưa, em trượt chân té vô (hoặc chạy vô trốn) trong một cái đường hầm, không ngờ đó là cái đường đi về quá khứ (mà xong tới cuối bài em nhớ giải thích là khi qua lại cái đường này thì thời gian là đúng lại cái lúc em vô áh, mà cái đường này khi em về lại hiện tại thì nó biến mất luôn: vậy mới giống trong phim hìhì...) Hoặc là sấm sét đánh làm mở ra 1 cổng "năng lượng" gì đó đi về quá khứ được, hoặc là rơi vô "lỗ đen vũ trụ" sao đó... Tóm lại là tùy trí tưởng tượng của em mà tìm 1 lý do sao đó về được quá khứ gâp được ông Quang Trung.
Thì vô thân bài: Nên là trước thời điểm ổng đánh trận, vì đang đánh túi bụi thì không có thời giờ trò chuyện gì đâu. Lúc này thì em cứ kể ra thôi. Ví dụ lúc em rớt xuống đó thì có 2 người lính bắt em vô lều ông "chủ tướng" ai dè đó là Quang Trung, vì em có thấy hình trong sách và thấy trên Google nên biết mặt ổng. Em mới mừng rỡ kêu lên, bận đầu dĩ nhiên ổng không tin nhưng em nói 1 hồi thì ổng tin. Em mới xin được ở lại chứng kiến trận đánh mà em từng được học và rất khâm phục này. Rồi ổng mới dắt em đi lòng vòng, giới thiệu về binh lính, chiến thuật, vũ khí... (cái này em học em biết chứ chị quên hết rồi)... Rồi kể tới lúc đánh em được đứng nhìn từ xa xa, thấy khí thế hào hùng sao đó, lòng yêu nước sục sôi, em cũng nghe trong lòng mình trào dâng tình cảm yêu nước, chí khí sao đó thì "nổ" thêm vô.... Trận đấu xong thì em còn được dự tiệc nữa... Rồi em xin ổng đi về, ổng mới phái lính đưa em lại chỗ cũ.
(Nếu viết kiểu này khó, thì em viết lúc em tới là lúc ổng đã lên ngôi vua rồi, trận đánh đã xong từ trước đó 1 thời gian rồi. Em mới xin ổng được nghe kể lại, ổng biết em là khách từ tương lai nên rất quý, cho ngồi kế bên "đàm đạo", ổng mới kể em nghe về trận đại phá quân Thanh này. Viết kiểu này thì chỉ cần dạo đầu 1 chút rồi "phang" nguyên đoạn học về trận đánh vô (lấy trong sách lịch sử luôn). Chắc chắn là ổng sẽ tò mò hỏi về tương lai, nhưng em khéo léo không được nói nhiều vì lý do là có thể làm thay đổi lịch sử, em chỉ "tâng bốc" ổng 1 chút là ổng được đưa vô sách giáo khoa, được nhiều lớp người cảm phục, em cũng rất nể phục ổng v.v...)
Kết luận: Thì em nói về nhà, mọi người đều không biết có chuyện gì. Em thì rất vui trong lòng, muốn kể với mọi người nhưng không dám vì sẽ thay đổi trật tự lịch sử, thời gian (với lại cũng không ai tin, không chừng còn bị đưa vô trại tâm thần). Nên tối đó em vui không ngủ được, trong lòng cứ cảm phục người anh hùng yêu nước, kiên cường, bất khuất, mưu trí, thông minh... biết ơn cha ông (tùm lum hết, nói thêm vô) rồi em thấy cần phải viết lại chuyện này trên giấy. Viết xong em thấy thoải mái hơn, lòng vẫn rất vui vì chuyến "phiêu lưu" vừa qua, em chìm vào giấc ngủ.

6 tháng 6 2018

Nguyễn Huệ là một người anh hùng rất tài giỏi, ông có tài điều binh khiển tướng. Nguyễn Huệ từng chỉ huy nhiều cuộc chiến lớn và đã giành thắng lợi, trong đó có cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Thanh, ông đã góp phần đem lại những mốc son vàng chói lọi cho lịch sử Việt Nam. Lê Chiêu Thống vốn là một tên vua ươn hèn, do lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên hắn cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho quân Thanh xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Văn Tuyết vào Nam cấp báo cho Bắc Bình Vương, Lê Chiêu Thống thì nhận sắc phong của vua Thanh là Nam Quốc Vương, còn Sở và Lân rút lui về Tam Điệp. Điều này có nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc vào đến Thăng Long, đây quả là một biến cố lớn. Trước sự việc đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ dự định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh cứu nguy cho đất nước.

Mấy hôm trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung vào tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Huệ lên ngôi rất uy nghi đường bệ, nghi lễ vô cùng trang nghiêm. Đây là một con người có dung mạo vô cùng đặc biệt. Trong cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: ông là người tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối nên không một ai dám nhìn vào mắt Nguyễn Huệ. Ta có thể thấy ở vị vua này toát lên vẻ mặt cương nghị, oai phong, lẫm liệt. Vua Quang Trung sai lính là Hám Hổ Hầu tuyển quân ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chẳng mấy chốc đã được một vạn quân tinh nhuệ. Sau đó, vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trại, những hàng quân thẳng tắp, gươm giáo nhất loạt bên mình, lá cờ tung bay phấp phới đã khí thế sẵn sàng luôn chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ đất nước. Trước khi xuất quân, vua Quang Trung cưỡi voi thân chinh ra doanh trại an ủi quân lính bằng phủ dụ của mình. Giọng nói của ông sang sảng giữa bốn bề núi rừng thanh vắng, đầy hào khí, tuyên bố với ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết chiến quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Lời vua Quang Trung nói vừa như ân cần khuyên bảo, vừa như răn dạy khiến cho quân sĩ rất cảm phục. Vì vậy họ đồng thanh mà nói rằng: xin vâng lệnh không dám hai lòng. Ngay hôm sau, Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các hàng quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đến núi Tam Điệp, ông gặp Sở và Lân. Vua Quang Trung phân tích rõ công tội của họ. Không những không chém mà còn tha tội chết cho họ. Quang Trung đã thể hiện sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng và quân lệnh nghiêm minh, quân thua chém tướng khiến cho mọi người nhất là Sở và Lân đều vô cùng cảm động và biết ơn ông. Ngoài ra ông còn nói rõ sẽ cho quân sĩ hiểu rằng quân Thanh là đội quân lớn mạnh gấp mười lần đội quân mình, nếu chúng thua trận này ắt thấy thẹn mà báo thù như vậy việc binh đao không bao giờ dứt, lúc đó dân chúng sẽ lâm vào cảnh lầm than. Điều này đã thể hiện rõ vua Quang Trung còn rất biết lo xa, lo lắng cho vận mệnh dân chúng. Đêm 30 tháng chạp, ông cho mở tiệc khao quân, bữa tiệc Tết trước khi ra trận tuy làm không to, không khí không có tiếng đàn, ca hát nhưng quân sĩ ai ai cũng thấy lòng phơi phới niềm vui và niềm tin quyết thắng vào trận chiến hôm sau. Vua Quang Trung dõng dạc tuyên bố với một vài tướng sĩ của mình trước ngày thắng trận đã cho thấy ông là người có khả năng tiên đoán trước tình hình, có tầm nhìn xa trông rộng. Vào tối 30 Tết lập tức lên đường ra Bắc. Để giữ sức cho quân sĩ, ông liền nghĩ ra cách lấy cáng làm võng cứ hai người khiêng một người nằm ngủ luân phiên nhau đi suốt, đêm ngày, mau chóng thần tốc, tiến thẳng ra Bắc. Khi quân sĩ của vua Quang Trung ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước lúc đến sân Thanh Quyết, quân Thanh ở đó trông thấy cũng chạy nốt. Vua Qung Trung liền thúc quân đuổi theo, đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết không để tên nào về báo tin. Lại nói Quang Trung đi rất nhiều ngày đêm, quần áo sộc sệch bám đầy bụi đường, da den sạm đi vì nắng và gió. Có lúc quân sĩ còn lên cơn sốt nửa đường do không quen với khí hậu phía Bắc và do cái lạnh căm căm của ngày Tết. Nhưng ông vẫn đủ minh mẫn để chỉ huy cả đội quân tiến đánh. Việc tấn công của quân ta là hoàn toàn bí mật tiến về đồn Hà Hồi - Ngọc Hồi. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), sau khi đi suốt 3 đêm 3 ngày, nghĩa quân đã tới làng Hà Hồi. Từ nửa đêm mồng 3 tháng giêng vua Quang Trung lặng lẽ cho bao vây khắp làng, ông đã rất thông minh khi dùng kế nghi binh: bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời xin hàng. Toàn bộ vũ khí và lương thực đều bị quân Nam lấy hết. Chính vì vậy nên việc hạ đồn Hà Hồi rất nhanh gọn. Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép ba tấm làm một bức, lấy rơm đắp nước phủ quanh ngoài. Mờ sáng ngày mồng 5, đoàn quân đã tiến sát đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào, nhân có gió Bắc bọn chúng liền dùng ống phun lửa, khói lửa mù trời. Nhưng bỗng trời trở gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Sự việc đó lại càng chứng tỏ việc làm của nghĩa quân Quang Trung là rất chính nghĩa đến trời đất cũng ủng hộ. Quân Thanh chống không nổi. Bỏ chạy tán loạn giẫm đạp, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân ta thừa thắng xông lên chém giết quân giặc, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại. Giữa trưa hôm ấy, Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi vào thành. Vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân ăn mừng, hôm ấy là ngày mồng 5 tháng giêng. Như vậy dự đoán của Quang Trung quả không sai. Quân sĩ hết sức vui mừng cho chiến thắng oanh liệt này.

Qua đây ta càng cảm thấy khâm phục trước chiến công thần tốc của vua Quang Trung. Nó mang lại một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Tuy Đại Việt chỉ là một nước nhỏ nhưng dân tộc ta lại có một sức mạnh vô cùng ghê gớm, sức mạnh này có thể đánh bại bất kỳ một nước lớn nào dám sang xâm lược. Hằng năm, Việt Nam ta thường tổ chức lễ hội Đống Đa cũng là đế tưởng nhớ đến người anh hùng áo vải Quang Trung cùng toàn bộ quân sĩ đã dũng cảm chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.


6 tháng 6 2018

Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp phải đối mặt những kẻ thù lớn mạnh hơn mình nhiều lần, không chỉ về lực lượng, vũ khí mà cả điều kiện chiến tranh. Nhưng, chưa một lần quân dân Việt Nam chịu khuất phục trước những sự đô hộ bạo tàn, áp bức tàn nhẫn ấy. TRong đời sống những người Việt Nam thuần nông, hiền hậu yêu thương tương trợ nhau trong hoạt động sản xuất. Nhưng khi chiến tranh xảy ra thì họ trở thành những người anh hùng với chí khí ngất trời, cùng với nhân dân khắp nơi đoàn kết lại thành một khối thống nhất, tạo thành “cơn lốc” dân tộc cuốn trôi đi lũ cướp nước, bán nước. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng, đó là điều không phải bàn cãi nhiều. Nhưng trong tập thể anh hùng ấy vẫn nổi trội lên những trang hào kiệt, những con người kiệt xuất, những ngươi lãnh đạo, tổ chức đấu tranh đã đi vào lịch sử. Một trong số đó có người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ.

Những giai thoại về vua Quang Trung Nguyễn Huệ có rất nhiều trong dân gian, nhưng chi tiết và xác thực nhất ta có thể thông qua tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của các tác giả nhà Ngô Gia Văn Phái. Trong cuốn tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí đã khắc họa một cách chân thực nhất hình ảnh của một người anh hùng lẫy lừng trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt các tác giả nhà Ngô gia văn phái theo triều đình phong kiến nhà Lê, nên cách đánh giá, nhìn nhận những chiến công của Nguyễn Huệ trong tác phẩm này có thể nói là khách quan. Nguyễn Huệ hiện lên trên trang văn không chỉ là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất mà còn hiện lên với tư cách của một người bình thường, có những cảm xúc và hành động của một người thường.

Trong Hoàng Lê nhất thống chí, các tác giả Ngô gia miêu tả nhiều diện nhân vật, chính diện có, phản diện có, chỉ cần vài nét phác thảo những nét đặc trưng nhất thì hình ảnh của những con người này hiện lên trang văn với những nét tính cách không thể nhầm lẫn với nhân vật khác. Người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ cũng là một trong những nhân vật chủ chốt của tác phẩm, xuất hiện qua nhiều hồi của tác phẩm. Nhưng có lẽ chi tiết và ấn tượng nhất chính là trong hồi thứ mười bốn, khi Quang Trung Nguyễn Huệ lãnh đạo nghĩa quân đại bại hai mươi chín vạn quân Thanh. Đây là chương mà người anh hùng Nguyễn Huệ hiện lên rõ nét nhất với những tài năng xuất chúng, bản lĩnh phi thường của một người chủ tướng.

Ngay khi biết tin quân nhà Thanh kéo quân vào kin thành Thăng Long, ấp ủ âm mưu lật đổ nàh Lê, thiết lập chế độ đô hộ trên lãnh thổ Việt Nam ta, nhưng cuộc tiến công của quân Thanh lại ít người biết được, lại thêm việc vua Lê thụ phong đều không một ai hay biết mà cấp báo, phải đến tận ngày hai mươi tư tháng mười một, Nguyễn Văn Tuyết mới đến thành Phú Xuân mà cấp báo với Bắc Bình vương, tức vua Quang Trung Nguyễn Huệ sau này. Biết tin, Nguyễn Huệ vô cùng giận dữ bèn tập trung binh lính, định lập tức lên đường ra Bắc. Nhưng những tướng lính đều đưa ra ý kiến là bây giờ chưa thể đi vì địa vị hiện tại chưa lấy được lòng tin của dân chúng.

Nghe ý kiến của các tướng lĩnh dưới chướng, Nguyễn Huệ cũng cho là hợp lí, bèn lập tức cho đắp đàn tế lễ trên núi Bân, nay thuộc địa phận của huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên tế cáo với trời đất cùng dân chúng để lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thái Đức. Ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, vua Quang Trung đã đích thân hạ lệnh xuất quân ra Bắc, thân chinh lãnh đạo quân đội. Quang Trung Nguyễn Huệ không chỉ là một người anh hùng túc trí đa mưu mà còn là một con người biết trọng dụng hiền tài, thể hiện khí chất của một bậc minh quân. Điều đó được thể hiện ra ngay trong việc vua Quang Trung triệu kiến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp để hỏi ý kiến.

Quang Trung đã hỏi ý kiến của Nguyễn Thiếp rằng cuộc tiến công ra Bắc lần này liệu có thể giành được phần thắng hay không, sau khi nhận được lời khẳng định của Nguyễn Thiếp “Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ nên đánh nên giữ ra sao. Chúa công đi chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan”. Vua Quang Trung lấy làm mừng lắm, lập tức sau những quân tướng trung thành đi tuyển mộ binh lính ở khắp nơi, cứ ba xuất đinh thì lấy một người. Nghe danh tiếng của vua Quang Trung, cùng quá trình đốc thúc chiêu mộ mà chẳng mấy chốc, nghĩa quân đã được hơn một vạn người tinh nhuệ.

Không chỉ đẩy mạnh công tác tuyển chọn binh lính mà vua Quang Trung còn tổ chức các duyệt binh ở Thanh Hóa, Quảng Nam để phân chia quân đội của mình ra thành bốn doanh: Tiền, hậu, tả, hữu còn số binh lính còn lại thì làm trung quân. Không chỉ đốc thúc chiêu mộ, cho binh sĩ tập luyện mà trước ngày lên đường ra Bắc, vua Quang Trung còn động viên binh sĩ bằng những lời nói đanh thép đầy mạnh mẽ. Trước hết, vua Quang Trung đã trách mắng binh sĩ vì đem thân thờ vua, làm lên những chức vị quan trọng, cai quản nhiều vùng quan trọng nhưng làm việc lại chưa hiệu quả, còn tùy tiện. Vì vậy mà khi quân Thanh kéo đến chưa đánh nổi một trận đã kéo quân rút chạy một cách đớn hèn. Nhưng bởi đều là những bậc võ dũng nên hãy dùng công để chuộc tội. Lần này cùng tar a Bắc đánh dẹp quân Thanh, giành lại chủ quyền cho non sông.

Vua Quang Trung đã bày binh bố trận hợp lí nhằm phát huy sức mạnh của đại quân. Trước hết, cử nội hầu Lân đốc suất tiền quân làm tiên phong, Hám hổ đốc suất hậu quân làm đốc chiến, hay đại đô đốc Lộc, Tuyết làm đốc xuất tả quân. Bên cạnh đó, cánh quân thủy sẽ đưa quân vượt biển vào sông Lục Đầu, vua Quang Trung còn bố trí những vị trí phòng thủ, tấn công, thậm chsi còn sai người chặn đánh đường rút lui của quân Thanh, hay đội quân tiếp ứng, sẵn sàng tham chiến. Có thể nói, ngay từ khâu tổ chức quân của vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã thể hiện bản lĩnh của một vị chủ tướng mưu lược, tài năng. Một cuộc chiến mà có sự tổ chức chặt chẽ về quân đội và phương hướng chiến đấu như vậy thì khó mà có thể thất bại.

Cuộc hành quân ra Bắc của vua Quang Trung Nguyễn Huệ cũng đã đi vào lịch sử, bởi đây là một cuộc hành quân thần tốc, bởi không ai có thể tin được chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, vua Quang Trung đã mang toàn bộ quân đội ra Bắc, bao vây thành Thăng Long mà quân giặc không hề hay biết. Chiến lược của vua Quang Trung trong cuộc hành quân này là cho quân lính theo tốp ba người luân phiên nhau võng đi, quân lính được luân phiên nghỉ ngơi hợp lí nên cuộc hành quân diễn ra vô cùng thần tốc, khiến cho quân Thanh hoảng loạn, sợ hãi khi bị đại quân bao vây, tấn công.

Bao vây kinh thành Thăng Long, vua Quang Trung cho binh lính lấy những tấm ván bọc rơm và tẩm nước phủ kín bên ngoài làm vòng vây bảo vệ nghĩa quân. Tiếp đó là những binh sĩ khỏe mạnh, cứ nhóm mười người khiêng một tấm, sau lưng sẽ có binh lính theo sau, mang theo vũ khí, dàn trận thành hình chữ nhất. Vua Quang Trung đích thân cưỡi voi chỉ huy kháng chiến. Đến ngày mùng năm thì nghĩa quân đã tiến sát Ngọc Hồi khiến cho quân Thanh chống đỡ không nổi mà bỏ chạy toán loạn, dẫm đạp lên nhau để tìm đường thoát thân, tên thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống thắt cổ chết.

Quân của vua Quang Trung đại thắng, hai mươi chín vạn quân Thanh đại bại dưới sức mạnh không ngờ của nghĩa quân. Đại thắng của nghĩa quân Tây Sơn đã đi vào lịch sử nước nhà, là một trong những chiến thắng vẻ vang nhất.

16 tháng 9 2018

Nguyễn Huệ là một người anh hùng rất tài giỏi, ông có tài điều binh khiển tướng. Nguyễn Huệ từng chỉ huy nhiều cuộc chiến lớn và đã giành thắng lợi, trong đó có cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Thanh, ông đã góp phần đem lại những mốc son vàng chói lọi cho lịch sử Việt Nam. Lê Chiêu Thống vốn là một tên vua ươn hèn, do lo cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên hắn cầu cứu nhà Thanh, mở đường cho quân Thanh xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Văn Tuyết vào Nam cấp báo cho Bắc Bình Vương, Lê Chiêu Thống thì nhận sắc phong của vua Thanh là Nam Quốc Vương, còn Sở và Lân rút lui về Tam Điệp. Điều này có nghĩa là nước ta mất hết đất từ cửa ải phía Bắc vào đến Thăng Long, đây quả là một biến cố lớn. Trước sự việc đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ dự định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh cứu nguy cho đất nước.

Mấy hôm trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung vào tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Huệ lên ngôi rất uy nghi đường bệ, nghi lễ vô cùng trang nghiêm. Đây là một con người có dung mạo vô cùng đặc biệt. Trong cuốn Các triều đại Việt Nam có viết: ông là người tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, mắt sáng như chớp có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối nên không một ai dám nhìn vào mắt Nguyễn Huệ. Ta có thể thấy ở vị vua này toát lên vẻ mặt cương nghị, oai phong, lẫm liệt. Vua Quang Trung sai lính là Hám Hổ Hầu tuyển quân ở Nghệ An, cứ ba suất đinh thì lấy một người, chẳng mấy chốc đã được một vạn quân tinh nhuệ. Sau đó, vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trại, những hàng quân thẳng tắp, gươm giáo nhất loạt bên mình, lá cờ tung bay phấp phới đã khí thế sẵn sàng luôn chuẩn bị chiến đấu để bảo vệ đất nước. Trước khi xuất quân, vua Quang Trung cưỡi voi thân chinh ra doanh trại an ủi quân lính bằng phủ dụ của mình. Giọng nói của ông sang sảng giữa bốn bề núi rừng thanh vắng, đầy hào khí, tuyên bố với ba quân, khẳng định niềm tin, ý chí quyết chiến quyết thắng của đội quân chính nghĩa. Lời vua Quang Trung nói vừa như ân cần khuyên bảo, vừa như răn dạy khiến cho quân sĩ rất cảm phục. Vì vậy họ đồng thanh mà nói rằng: xin vâng lệnh không dám hai lòng. Ngay hôm sau, Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các hàng quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đến núi Tam Điệp, ông gặp Sở và Lân. Vua Quang Trung phân tích rõ công tội của họ. Không những không chém mà còn tha tội chết cho họ. Quang Trung đã thể hiện sự am hiểu, lòng vị tha độ lượng và quân lệnh nghiêm minh, quân thua chém tướng khiến cho mọi người nhất là Sở và Lân đều vô cùng cảm động và biết ơn ông. Ngoài ra ông còn nói rõ sẽ cho quân sĩ hiểu rằng quân Thanh là đội quân lớn mạnh gấp mười lần đội quân mình, nếu chúng thua trận này ắt thấy thẹn mà báo thù như vậy việc binh đao không bao giờ dứt, lúc đó dân chúng sẽ lâm vào cảnh lầm than. Điều này đã thể hiện rõ vua Quang Trung còn rất biết lo xa, lo lắng cho vận mệnh dân chúng. Đêm 30 tháng chạp, ông cho mở tiệc khao quân, bữa tiệc Tết trước khi ra trận tuy làm không to, không khí không có tiếng đàn, ca hát nhưng quân sĩ ai ai cũng thấy lòng phơi phới niềm vui và niềm tin quyết thắng vào trận chiến hôm sau. Vua Quang Trung dõng dạc tuyên bố với một vài tướng sĩ của mình trước ngày thắng trận đã cho thấy ông là người có khả năng tiên đoán trước tình hình, có tầm nhìn xa trông rộng. Vào tối 30 Tết lập tức lên đường ra Bắc. Để giữ sức cho quân sĩ, ông liền nghĩ ra cách lấy cáng làm võng cứ hai người khiêng một người nằm ngủ luân phiên nhau đi suốt, đêm ngày, mau chóng thần tốc, tiến thẳng ra Bắc. Khi quân sĩ của vua Quang Trung ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước lúc đến sân Thanh Quyết, quân Thanh ở đó trông thấy cũng chạy nốt. Vua Qung Trung liền thúc quân đuổi theo, đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết không để tên nào về báo tin. Lại nói Quang Trung đi rất nhiều ngày đêm, quần áo sộc sệch bám đầy bụi đường, da den sạm đi vì nắng và gió. Có lúc quân sĩ còn lên cơn sốt nửa đường do không quen với khí hậu phía Bắc và do cái lạnh căm căm của ngày Tết. Nhưng ông vẫn đủ minh mẫn để chỉ huy cả đội quân tiến đánh. Việc tấn công của quân ta là hoàn toàn bí mật tiến về đồn Hà Hồi - Ngọc Hồi. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỉ Dậu (1789), sau khi đi suốt 3 đêm 3 ngày, nghĩa quân đã tới làng Hà Hồi. Từ nửa đêm mồng 3 tháng giêng vua Quang Trung lặng lẽ cho bao vây khắp làng, ông đã rất thông minh khi dùng kế nghi binh: bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời xin hàng. Toàn bộ vũ khí và lương thực đều bị quân Nam lấy hết. Chính vì vậy nên việc hạ đồn Hà Hồi rất nhanh gọn. Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván cứ ghép ba tấm làm một bức, lấy rơm đắp nước phủ quanh ngoài. Mờ sáng ngày mồng 5, đoàn quân đã tiến sát đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra nhưng chẳng trúng người nào, nhân có gió Bắc bọn chúng liền dùng ống phun lửa, khói lửa mù trời. Nhưng bỗng trời trở gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Sự việc đó lại càng chứng tỏ việc làm của nghĩa quân Quang Trung là rất chính nghĩa đến trời đất cũng ủng hộ. Quân Thanh chống không nổi. Bỏ chạy tán loạn giẫm đạp, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân ta thừa thắng xông lên chém giết quân giặc, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại. Giữa trưa hôm ấy, Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi vào thành. Vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân ăn mừng, hôm ấy là ngày mồng 5 tháng giêng. Như vậy dự đoán của Quang Trung quả không sai. Quân sĩ hết sức vui mừng cho chiến thắng oanh liệt này.

Qua đây ta càng cảm thấy khâm phục trước chiến công thần tốc của vua Quang Trung. Nó mang lại một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Tuy Đại Việt chỉ là một nước nhỏ nhưng dân tộc ta lại có một sức mạnh vô cùng ghê gớm, sức mạnh này có thể đánh bại bất kỳ một nước lớn nào dám sang xâm lược. Hằng năm, Việt Nam ta thường tổ chức lễ hội Đống Đa cũng là đế tưởng nhớ đến người anh hùng áo vải Quang Trung cùng toàn bộ quân sĩ đã dũng cảm chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.