Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a) rọi: chiếu, soi
nhìn: trông, ngó, xem,...
b) - ngó, ngóng,...
- (ko biết)
a). Rọi: chiếu,....
Nhìn: ngó, xem, ngắm,...
b). Để mắt, quan tâm tới: trông, dòm, ngó, quan sát,...
Xem để tháy và biết được: coi, xem, liếc,...
a, Khi đi trẻ ,lúc về già
b,
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
c,Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố nhớ cố hương
những chữ in nghiêng là những từ trái nghĩa
cử><đê
td: nói về tâm trạng nhớ quê hương của tác giả khi nhìn thấy trăng
1.
a. Tuy không phải bài thơ Đường song Tĩnh dạ tứ cũng sử dụng phép đối rất tài tình.
+ Đối trong hành động: Cử đầu - Đê đầu (Ngẩng đầu - Cúi đầu)
+ Đối trong diễn biến tâm trạng: vọng minh nguyệt - tư cố hương ("nhìn trăng sáng" là hiện diện của bên ngoài, "nhớ cố hương" là hiện diện của sự vận động mạch tâm trạng ở bên trong)
b. Tác dụng của phép đối: Tác giả ngắm trăng trong hoàn cảnh xa quê và khôn nguôi nhớ về quê hương. Trăng là vật trung gian, trăng là cầu nối gắn kết không gian ở quê hương và không gian nơi tác giả đang ở. Ngẩng đầu - Cúi đầu cho thấy sự thao thức, trằn trọc của Lý Bạch trong đêm. Vì vậy dù không phải bài thơ Đường nhưng bài thơ vẫn tạo dựng được nghệ thuật đối tài tình, tiêu biểu cho chùm thơ viết về đề tài "Vọng nguyệt hoài hương" (trông trăng nhớ quê hương). Phép đối làm sâu sắc thêm nỗi nhớ, tình cảm của tác giả đối với quê hương.
2. Bài thơ có sự thống nhất liền mạch trong suy nghĩ và hành động của nhân vật trữ tình bởi với 4 từ: "nghi", "cử", "đê", "tư" cho thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật. Trăng là điểm tựa. Ánh trăng sáng chiếu rọi như soi tỏ lòng Lý Bạch mà ông ngỡ là sương. Vì băn khoăn không biết đó là ánh trăng hay là sương nên tác giả ngẩng đầu để xác minh. Và khi đã tường tỏ và cảm nhận được ánh trăng, tác giả lại thấy bùi ngùi nhớ thương quê hương và vợ con gia đình ở quê cũ. Bởi vậy, hành động và diễn biến tâm trạng như phản ứng dây truyền, có sự thống nhất liền mạch giữa bên ngoài và bên trong.
Bài thơ của Lý Bạch vì thế mà trở nên tiêu biểu và có sức bám rễ lâu bền trong lòng bao thế hệ độc giả.
amột thể thơ trong đó mỗi câu thường có 5 hoặc 7 chữ, song không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm, luật và đối.
-Bức tranh được phác họa trong bài thơ là cảnh đêm trăng thanh tĩnh. Nỗi cô đơn trên đất khách quê người khiến cho Lí Bạch trằn trọc, thao thức, không sao ngủ được. Ông muốn chia sẻ tâm sự với vầng trăng – người bạn không lời nhưng gắn bó thân thiết với ông và được ông coi là tri âm, tri kỉ
-Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương</span></p><p><span>c)-Câu thơ cuối mở ra một thế giới mênh mang và phức tạp của tâm trạng. Có bao điều mà nhà thơ muốn gửi gắm vào hai chữ cố hương. Cố hương là quê cũ, là dĩ vãng đầy ắp kỉ niệm của tuổi hoa niên. Cố hương là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, là nơi có những người thân yêu nhất của ta đang sống hoặc đã gửi nắm xương tàn. Đối với kẻ tha phương, cố hương là một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng mà mỗi khi nhắc tới lại cảm thấy trĩu nặng trong lòng, trĩu nặng cả mái đầu đã pha sương sau nửa đời lênh đênh, lưu lạc.Bài thơ được làm theo hình thức cổ thể ngũ ngôn tuyệt cú. Cái tự do của hình thức thể hiện (so với Đường luật thì cổ thể không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm, luật và đối ràng buộc) tỏ ra rất có hiệu quả khi diễn đạt mạch cảm xúc tự nhiên. Tuy thế, tác giả cũng đã sử dụng phép đối rất đắc địa ở hai câu cuối:đầu, nhìn trăng sángnhớ cố hương. Nguyên tác cho thấy đây là cặp đối rất chỉnh, về mặt từ loại: động từ / động từ, tính từ / tính từ , danh từ / danh từ
-Về mặt ý nghĩa, cặp đối tạo thành sự sóng đôi: Cảnh / tình (trăng / quê hương). Sự sóng đôi này chính là cấu tứ của bài thơ. Cảnh gợi tình, trăng gợi nhớ quê hương, rồi đến lúc con người chìm đắm trong nỗi nhớ, trăng thấm đẫm vào hồn. Cái cúi đầu như lặng lẽ, như buồn tủi...
Lí Bạch là một nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường Trung Quốc. Với những đóng góp của ông cho nền văn học nước này, ông đã được mệnh danh là “ Thi Tiên”. Cũng không hề là ngẫu nhiên mà mọi người ưu ái đặt cho ông danh hiệu này. Trong mỗi câu thơ ông viết không chỉ sâu sắc về mặt nội dung và còn rất chân thực, dạt dào về mặt cảm xúc. Trong số các tác phẩm của ông, bài thơ “Tĩnh dạ tư” là một trong những bài thơ thể hiện xuất sắc cảm xúc chân thật của nhà thơ, cụ thể ở đây là nỗi nhớ thương da diết của nhà thơ hướng về quê hương của mình.
Lí Bạch rời xa quê hương từ năm hai mươi lăm tuổi, trên các chặng đường tha phương, chưa một lần Lí Bạch thôi nhớ thương về quê nhà. Những vần thơ ông viết về quê hương cũng da diết như chính tình cảm sâu nặng của ông dành cho quê nhà. Trong một lần ngắm trăng đêm, Lí Bạch đã cạnh lòng nhớ thương về quê nhà, và ông đã sáng tác bài thơ “ Tĩnh dạ tư” trong hoàn cảnh đó.
“Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương”
( Dịch: Đầu giường trăng sáng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương)
Chủ đề “ Vọng nguyệt hoài hương” là một đề tài khá quen thuộc trong văn học. Ở đây, nhà thơ Lí Bạch cũng nhìn ngắm ánh trăng để gửi gắm nỗi nhớ về quê nhà.
Chữ “ sàng” ( đầu giường) gợi cho người đọc liên tưởng rằng nhà thơ đang nằm trên giường, hình ảnh một con người đang trằn trọc trong đêm khuya, vừa ngắm trăng vừa mang mỗi suy tư, sầu muộn. Ánh trăng sáng rọi đầu giường, bao phủ không gian, càng làm cho con người trong đêm thanh tịnh thêm cô đơn, lẻ loi.
“Nghi” ở đây là một câu cảm thán thể hiện sự hoài nghi, nghi ngờ. Ánh trăng sáng chiếu rọi đầu giường, nơi nhà thơ nằm, cũng soi rọi xuống mặt đất làm cho mặt đất trở nên mờ ảo như có sương mù bao phủ “ Nghi thị địa thượng sương”.
Ta có thể thấy hai câu thơ đầu, nhà thơ Lí Bạch đã gợi ra được cái không gian, bối cảnh tịch mịch của đêm trăng để làm cái nguyên cớ, cái bối cảnh để nhà thơ dãy bày cảm xúc thương nhớ dành cho quê hương của mình:
“ Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương”
(Dịch: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương)
Đến đây, cảm xúc của nhà thơ thực sự đã được dãi bày một cách trọn vẹn.Nếu trong hai câu thơ đầu, nhà thơ tả cảnh song chỉ thấp thoáng những nguồn cảm xúc thì đến hai câu thơ này, đối tượng của sự nhớ tương đã được xác định, được biểu lộ một cách trọn vẹn.
“ Cử đầu”- “ Đê đầu” ( Ngẩng đầu – cúi đầu) là hai từ chỉ hành động mang sắc thái đối ngược song chúng cùng nhau diễn ra để chỉ sự thống nhất trong cảm xúc, trong nỗi nhớ của nhà thơ.
“ Cử đầu vọng minh nguyệt” hành động ngẩng đầu để thụ hưởng ánh trăng sáng trong đêm đã gợi nhắc một cách mãnh liệt về nỗi nhớ nhà, nối nhớ quê hương của nhà thơ. Câu thơ cũng thể hiện rõ nhất “ xúc cảnh sinh tình”, ngắm trăng nhớ quê của bài thơ.
Ngẩng đầu là để ngắm nhìn ánh trăng sáng, nhà thơ đã cảm nhận được sự thân thuộc, gắn bó để từ đó khơi dậy được nguồn cảm xúc mãnh liệt nơi sâu thẳm trong tâm hồn, đó là nỗi nhớ về quê hương:
“ Đê đầu tư cố hương”
Nếu hành động ngẩng đầu được coi là chất xúc tác gợi nhắc mạnh mẽ về nỗi nhớ quê thì “ đê đầu” ( cúi đầu) lại gợi liên tưởng về sự suy tư, trăn trở của chính nhà thơ Lí Bạch. Nhà thơ cúi đầu để hồi tưởng về quê hương nhưng cũng có thể là cách nhà thơ cố kìm nén dòng cảm xúc trào dâng của mình.Ánh trăng sáng rọi cũng đã chiếu sáng đến phần tình cảm thiêng liêng, sâu thẳm nhất trong tâm hồn nhà thơ. Nếu tiếp tục ngắm nhìn, nỗi nhớ cứ thế vỡ òa mà hoàn cảnh hiện tại, nhà thơ đang ở nơi đất khách không thể trở về thì chỉ còn một cách là cố kìm nén cảm xúc như thác lũ đang trào ra ấy.Ta cũng có thể thấy, nhà thơ có một tình cảm vô cùng mãnh liệt, dạt dào với quê hương của mình. Bởi chỉ có sự thân thương, gắn bó thì sự tác động của ngoại cảnh ( ánh trăng) mới có thể khơi ra được nguồn cảm xúc mãnh liệt như vậy.
Như vậy, trong không gian thanh tịnh của buổi đêm, khi ánh trăng sáng rọi đầu giường thì những cảm xúc thương yêu về quê hương trong nhà thơ Lí Bạch đã được bộc lộ trọn vẹn. Cái làm nên thành công của bài thơ không chỉ ở ngôn từ tinh tế, cách cảm nhận và biểu hiện ý thơ một cách xuất sắc mà còn bở Lí Bạch lồng vào những vần thơ của mình cảm xúc dạt dào nhất, chân thực nhất của mình.