Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Năm 1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trong giai đoạn khó khăn, phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị người chỉ huy tối cao của cuộc kháng chiến không khỏi âu lo, trằn trọc. Nỗi lòng ấy của Người đã được thể hiện tinh tế trong bài thơ Cảnh khuya mà chúng ta từng đọc. Bước sang năm 1948, tình hình đất nước và sự nghiệp kháng chiến có nhiều chuyển biến khả quan. Niềm vui đang trở lại. Do đó vào đêm rằm tháng giêng (âm lịch) năm đó, sau một cuộc họp bàn việc quốc kế quân cơ, Bác đã hứng khởi sáng tác bài thơ: Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng). Phiên âm chữ Hán : Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên ; Yên ba thâm xử đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Xuân Thuỷ dịch : Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân ; Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. Tác phẩm thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nguyên văn bằng chữ Hán. Nếu chúng ta dịch nghĩa của bản phiên âm thì bài thơ ấy có thể như sau : Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất, Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân ; Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân, Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền. Nhà thơ Xuân Thuỷ dịch Nguyên tiêu sang thơ tiếng Việt chuyển thành thơ lục bát, thể hiện khá tốt nội dung, ý nghĩa, nhưng đã làm hao hụt phần nào âm điệu và ngôn từ của bài thơ nguyên tác. Do đó, khi đọc bài thơ, ta cần cố gắng kết hợp bản dịch thơ với nguyên tác thì mới cảm nhận chính xác vẻ đẹp của thơ Bác. Bài Nguyên tiêu viết về đề tài tả cảnh thiên nhiên, rất gần với thơ Đường. Cả những hình ảnh, từ ngữ, âm diệu, vần điệu của bài thơ cũng vậy. Đọc bài thơ, lắng nghe âm điệu và thoáng qua các chất liệu tạo vật như trăng tròn, sông xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng, nửa đêm, đầy thuyền... ta có cảm giác thơ của Bác Hồ giống thơ của Trương Kế trong bài Phong Kiều dạ bạc (Đêm ngủ ở bến Phong Kiều), nhất là câu cuối của hai bài. Kết bài Phong Kiều dạ bạc, Trương Kế viết : "Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền". Hồ Chí Minh viết: "Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền", về vóc dáng, hai câu thơ gần giống nhau, nhưng về cốt cách, bản chất thì khác nhau một trời một vực. Nói khác đi, bài thơ Nguyên tiêu tuy sử dụng nhiều chất liệu cổ thi, nhưng vẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Hồ Chí Minh, mang vẻ đẹp, sức sống và tinh thần của thời đại mới. Bác làm thơ Đường nhưng không máy móc mà đầy sáng tạo. Mỗi bài thơ của Người thể hiện tài năng và tâm hồn, trí tuệ của người chiến sĩ cách mạng hài hoà phong cách người nghệ sĩ ngày nay. Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên ; (Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân) Hai câu thơ đầu vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng giêng sáng quá, đẹp quá. Bầu trời cao rộng, thoáng đãng. Trăng tròn đầy. Cả không gian tràn ngập sức sống, trải mênh mang tường như không có giới hạn. Tất cả đều tươi trẻ, dào dạt cảnh xuân. Dòng sông mùa xuân, nước mùa xuân nối liền với bầu trời xuân. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả dùng điệp từ "xuân" ba lần liền mạch, nối nhau, ngân nga như một dòng nhạc xanh êm dịu. Câu thơ có bảy tiếng thì năm tiếng có thanh không: Xuân giang, xuân..., xuân thiên mang âm hưởng bay bổng, gợi cảm giác trong trẻo, rộng lớn, thảnh thơi, thanh bình, thú vị làm sao. Nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn dùng ngòi bút chấm phá chọn nét cảnh tiêu biểu, ấn tượng, hài hoà thống nhất với nhau, đã tạo ra một bức tranh đêm rằm tháng giêng ớ chiến khu Việt Bắc năm 1948, vừa mang vẻ đẹp của tạo vật vừa ẩn dụ cho tình hình kháng chiến đầy triển vọng lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy, là một cái nhìn, một cảm hứng, một phong thái binh tĩnh, ung dung, thanh thản của người nghệ sĩ - chiến sĩ. Đến hai câu kết của bài thơ thì chất chiến sĩ – nghệ sĩ càng hiện rõ : Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nquyệt mãn thuyền. (Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) Một cuộc họp bàn việc quốc kế quân cơ đã diễn ra trong đêm rằm tháng giêng ấy. Vị trí cuộc họp ở đâu ? Ở "yên ba thâm xứ" tức là ở "trên khói sóng nơi sâu thẳm", bí mật và thiêng liêng như trong huyền thoại vậy. Thế giới từng gọi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta là "cuộc kháng chiến thần thánh", có lẽ cũng căn cứ một phần vào cơ quan đầu não - những người chỉ huy kháng chiến - tài ba, huyền thoại này chăng ? Cuộc họp ấy đã bàn bạc, nhận định và quyết định những điều gì, chúng ta khống biết. Song điều chắc chắn chúng ta có thể tin được là cuộc họp ấy đã thành công rực rỡ, đem lại niềm vui, niềm tin cho mọi người. Do đó, lúc tan họp, mọi người ra về giữa đêm khuya, thấy trời như sáng ra, trăng như tròn hơn, ánh trăng ăm ắp đầy cả khoang thuyền: "Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền" (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền). Cả câu thơ nguyên tác lẫn câu thơ dịch đều đẹp. Những chiến sĩ kháng chiến chống ngoại xâm như được ngồi trên ánh sáng, tắm trong ánh trăng. Tất cả, ánh trăng rằm trên bầu trời Tổ quốc, con thuyền trên dòng sông quê hương và những tướng lĩnh của cuộc kháng chiến, tiêu biểu nhất là Hồ Chí Minh đã hoà hợp với nhau, cùng toả sáng cho nhau trong sức sống thanh xuân, trong niềm lạc quan và niềm tin chiến thắng. Có thể nói, nếu bài Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước, mối lo âu và tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp của đất nước thì bài "Nguyên tiêu" vừa nối tiếp vữa nâng cao những cảm hứng ấy của Bác Hồ, đồng thời thê hiện rõ hơn tinh thần chủ động, phong thái ung dung, lạc quan, niêm tin vững chắc ở sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ, người chiên sĩ - người nghệ sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ vừa mang âm điệu cổ điển vừa thể hiện tinh thần thời đại, khoe khoắn, trẻ trung. Nhờ đó, đêm rằm tháng giêng năm 1948 ấy vốn đã sáng, càng thêm sáng vì có nhiều niềm vui toả sáng...
Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc nhưng bên cạnh đó Người cũng là một hồn thơ tài hoa. Với nhiều tác phẩm giá trị để lại, Bác đã đóng góp một phần không nhỏ trong nền thi ca nước nhà. “Nguyên tiêu” hay “Rằm tháng Giêng” là một tác phẩm ghi lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử nước nhà. Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 sang hè 1948 quân ta lại liên tục thắng lớn trước thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh đó bài thơ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như truyền thêm cho quân và dân ta tình yêu thương vô bờ đối với quê hương đất nước, đồng thời cho ta thấy được tấm lòng luôn canh cánh vì nước vì dân của Bác Hồ.
Nguyên tác bằng chữ Hán:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền
Bản dịch:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Mở đầu bài thơ là một không gian bao la rộng lớn:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi.
!-->Ánh trăng đêm xuân an lành lồng lộng. Từ “lồng lộng” được đảo lên trên cho ta thấy cái rộng lớn bao la của cảnh sắc đêm xuân. Hình ảnh ánh trăng thường được sử dụng trong thơ Bác như một người bạn tri âm tri kỉ. Ở đây, ngay trong đêm Rằm vẫn luôn dõi theo, bầu bạn với Bác.
Câu thơ tiếp:
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Câu thơ cho ta thấy cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Hai từ “xuân” lặp lại nối tiếp nhau mở ra cho ta một không gian rợn ngợp tràn đầy sắc xuân, tràn đầy sức sống. Sông, nước, ánh trăng như nối liền nhau, giao hòa với nhau giữa vẻ đẹp của đất trời.
Câu thơ thứ ba vô tình nói vên hoàn cảnh và vị trí ngắm trăng của Bác:
Giữa dòng bàn bạc việc quân.
Ở hai câu thơ đầu cảnh thiên nhiên được Bác miêu tả quá sống động làm ta tưởng như Bác đang rất nhàn nhã ngắm trăng. Nhưng không, bác ngắm trăng trong một hoàn cảnh rất đặc thù, chơi vơi giữa dòng nước. Để tránh sự truy lung của quân địch, Bác cùng các chiên sĩ phải bàn bạc việc quân ở trên thuyền. Và ở nơi đó, ngay giữa trung tâm của đất trời, hồn thơ của Bác như giao hòa với thiên nhiên để vẽ lên cảnh thiên nhiên tuyệt sắc. Đọc câu thơ ta thấy thầm thương Bác, Người luôn đau đáu tấm lòng vì nước vì dân. Công việc bộn bề nhưng Bác vẫn luôn yêu thiên nhiên cảnh vật. Điều đó cho ta thấy tư thế ung dung lạc quan yêu đời của người chiến sĩ cách mạng.
Câu thơ cuối:
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Con thuyền trong câu thơ cuối là ẩn dụ sâu sắc về thắng lợi của cách mạng. Con thuyền cách mạng rực rỡ ánh trăng ngân báo hiệu cho ngày chiến thắng không còn cách xa. Câu thơ thể hiện một niềm lạc quan, niềm tin vô cùng với cách mạng.
Bài thơ “Rằm tháng Giêng” là một bài thơ độc đáo của Bác Hồ. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vô cùng của Bác đồng thời cũng nói lên tinh thần lạc quan giữa hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt.
Cụm từ “ta với ta” trong bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến chỉ nhà thơ và bạn mình. Còn cụm từ “ta với ta” trong bài Qua Đèo Ngang chỉ một mình bà với tình riêng của bà
tk nha
-Cụm từ ta với ta ở bài '' Qua Đèo Ngang '' là tác giải muốn nói đến sự cô đơn , buồn bã ,nhớ quê nhà , phải đứng trước một quang cảnh hoang sơ và vắng người.
-Cụm từ ta với ta ở bài '' Bạn đến chơi nhà '' để chỉ 2 người là Nguyễn Khuyến với người bạn lâu ngày mới tới chơi nhà , còn thể hiện sự vui vẻ , mừng rỡ khi ông về cáo quan ở ẩn.
Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc bố) (trang 109)
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tĩnh dạ tứ) (trang 123) của Lí Bạch
Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê (Hồi hương ngẫu thư) (trang 125) của Hạ Tri Chương
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá (Mao ốc vị thu phong sở phá ca) (trang 131 - 132), của Đỗ Phủ.
Tất cả nội dụng nghệ ở bảng này và trong GN SGK nhé bạn :
Chọn lọc trong số đó các tác phẩm Đường và học kĩ nhé bạn
- Hai từ còn lại miêu tả màu của ngàn dâu với mức độ tăng tiến (xanh xanh, xanh ngắt) vừa có ý nghĩa tượng trưng chỉ một linh cảm về sự cách xa vĩnh viễn (màu xanh của ngàn dâu trong thơ ca trung đại thường ngụ ý chỉ những đổi thay to lớn – có thể tìm hiểu thêm câu thành ngữ Thương hải biến vi tang điền (biển xanh biến thành nương dâu), hàm ý chỉ sự đổi thay to lớn), vừa gợi ra khoảng cách xa vời vợi và nỗi sầu ngày càng vừa lan toả, vừa thẳm sâu của người vợ khi chỗng đã cất bước ra đi.
Trong một lần đi công tác ở Đà Lạt, bố đã mang về cho mẹ con em một món quà thật đặc biệt. Bố đã mua về một giống hoa lạ mà ở vùng nông thôn quê em rất hiếm. Cây đã có nụ và sắp nở thành hoa. Cây hoa được mẹ và em chăm chút hàng ngày và vẫn được gọi bằng cái tên trìu mến cây hồng nhung. Đó cũng chính là loài cây em yêu thích nhất.
Cây hồng nhung được trồng trong một cái chậu sứ. Từ trước tới giờ, em chưa từng thấy cây hồng nào lại có vẻ đẹp mê hồn như thế. Thoạt nhìn thân cây hồng nhung có vẻ như khắng khiu, mảnh khảnh nhưng thực ra thì nó rất cứng và khỏe mạnh. Toàn thân cây có rất nhiều gai nhọn đâm ra tua tủa. Phía gốc cây màu xanh đậm nhưng càng lên đến ngọn, màu xanh của thân cây càng nhạt dần, đến phần ngọn thì chuyển sang màu nõn chuối và gai cũng mềm dần đi. Những cái gai ấy chính là vũ khí tự vệ củạ loài hoa hồng nhung với các loài sâu bọ. Một lần em bắt một con nhện đang giăng tơ buổi sáng và vô tình đụng phải một cái gai gần gốc cây, tay em đã bị chảy máu, em giận nó lắm. Nó giống như một tiểu thư đài các, dễ thương nhưng ưa nhõng nhẽo. Những chiếc lá hình bầu dục to bằng chiếc thìa ăn cơm được trang trí xung quanh một hàng răng cưa như những nét hoa văn bao xung quanh lá. Trông kiêu kỳ đáng yêu làm sao!. Đây đó thấp thoáng những nụ hoa to bằng đầu đũa, vươn mình lên cao như muốn phô bày vẻ kiêu sa, quyền quý của mình. Và kia, một đóa hồng nhung đang độ xuân thì còn ngậm một giọt sương long lanh trên cánh. Bông hoa hồng mới phô ra được vài ba cánh. Mẹ bảo, hoa hồng được mệnh danh là “chúa của các loài hoa”. Em nghĩ mẹ nói đúng. Hương thơm của hoa là một món quà của tạo hóa đã ưu ái dành cho loài hoa này, vừa dìu dịu, thanh tao, không ngạt ngào mà chỉ thoang thoảng.
Cây hồng nhung này chính là loài cây em yêu thích. Ai đi qua đây cũng phải đều dừng lại vài phút để chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiêu kì của hồng nhung. Em rất tự hào về chậu hoa hồng nhung của mình.
Là người Việt Nam chắc chẳng ai xa lạ với cây khế. Tôi biết cây khế trước khi được nghe kể câu chuyện Ăn khế trả vàng và ngân nga lời bài hát “quê hương là chùm khế ngọt”. Tôi yêu loài cây này bởi cái vẻ đẹp bình dị mà thanh cao của nó cũng như yêu những kỉ niệm tuổi thơ tôi từng gắn bó dưới bóng cây.
Cây khế của tôi được trồng trước nhà từ ngày tôi còn lên ba. Ngày trước nó vốn là cây mọc hoang phía sau hè nhưng vì bà tôi sợ nó cô đơn nên đã dời ra trước sân. Cây khế biết ơn bà nên vươn cành cao và xòe tán rộng. Tôi thương cái dáng mảnh khảnh của cành chịu nhiều sương gió mà vẫn dẻo dai. Tôi quý cái gốc sần sùi nhiều vết thẹo, tôi đã nhiều lần khóc khi tiễn những chiếc lá vàng về đất. Lá khế không to nhưng đủ bóng mát cả một góc sân bởi lá có bao giờ mọc lẻ loi. Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ thói quen ngửi mùi hoa khế. Tôi thích thú trước từng chùm hoa mọc âm thầm tim tím cả một bầu trời. Hoa khế không rực rỡ, không ngát hương nhưng lại có sức quyến rũ kì lạ với chúng tôi. Mùi của hoa như mùi của cỏ, của lá, của rơm rạ quê hương. Điều kí diệu nhất vẫn nằm ở trái khế xanh xanh khi còn non và ngả vàng khi chín. Đã bao lần tôi say sưa trước hình thù kì lại của trái khế, không giống với bất kì loại trái nào, khế có 5 múi rõ ràng.
Ngày trước tôi chưa hề biết cây khế lại đi vào thơ ca, văn học nhiều đến vậy. Tô chỉ biết rằng nó đi vào đời sống của người dân quê tôi như một phần không thể thiếu. Mẹ tôi thường hái trái khế chín nấu canh chua cá lóc. Ba thì thích ăn mắm chưng, ba bảo mắm chưng không thể thiếu chuối chát và khế. Nhìn những khoanh khế được cắt mỏng hình ngôi sao bày trên dĩa không ai có thể cưỡng lại sự hấp dẫn của món ăn. Bà tôi lại thích trồng cây khế trước nhà để cây rợp bóng mát cho các cháu vui chơi. Không chỉ thế cây khế còn là cả một niềm mơ mộng đối với lũ trẻ chúng tôi. Những buổi trưa hè, chúng tôi rủ nhau cất nhà chòi bên gốc khế rồi hái từng chùm khế xuống chấm với ít muối cùng nhau ăn. Đứa thì nhăn mặt, đứa hít hà nhưng chẳng mấy chốc cả rổ khế hết nhẵn. Thế nhưng chẳng bao giờ chúng tôi nở hái đến quả cuối cùng trên cây. Chúng tôi ngây thơ nghĩ rằng một ngày nào đó có chú chim quạ đến ăn khế sẽ đền đáp cho chúng tôi những món đồ chơi thật đẹp.
Cứ thế tuổi thơ của tôi trôi qua dưới bóng cây khế trong lành. Những đêm trăng sáng tôi thả hồn mình vào miền cổ tích với những ánh sao rực rỡ trên bầu trời và chiếc đèn lồng xanh, vàng là những trái khế đung đưa. Bà đã kể biết bao câu chuyện, làm sao tôi có thể đi qua hết cũng như chẳng thể nào nhớ nỗi mấy mùa hoa khế rụng. Cây khế của tuổi thơ, cây khế của ước mơ tôi ơi! Tôi mãi gọi tên như một người bạn chân thành.
gì vậy. mk ko nhìn thấy
Mắt bị hoa à!!