Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
Nhờ có công cụ mới bằng kim loại như lưỡi cày, cuốc, rìu, ... con người có thể khai hoang , mở rộng diện tích trồng trọt. Nông nghiệp dùng cày và chăn nuôi cũng có bước phát triển. Nghề luyện kim và chế tạo đồ đồng theo yêu cầu kĩ thuật cao, cùng với nghề dệt vải, làm đồ gốm, đố mộc,... dần trở thành nghành sản xuất riêng. Quá trình chuên môn hoá trong sản xuất lại có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động, tạo ra sản phẩm ngày càng nhiều cho xã hội. Con người không chỉ đủ ăn mà còn có của cải dư thừa
Tham khảo!
- Con người đã có thể khai phá những vùng đất mới mà trước kia chưa khai phá nổi, có thể cày sâu, cuốc bẫm, có thể xẻ gỗ đóng thuyền đi biển, xẻ đá làm lâu đài,…
- Lần đầu tiên trên chặng đường dài của lịch sử loài người, con người có thể làm ra một lượng sản phẩm dư thừa thường xuyên.
- Đời sống văn hóa, tinh thần của theo đó mà được cải thiện: con người biết dùng đồ trang sức hoa tai, vòng tay,.. bằng kim loại.
Câu 1:
- Công việc thường xuyên và hàng đầu của thị tộc là kiếm thức ăn để nuôi sống thị tộc.
- Yêu cầu của công việc và trình độ lao động thời nguyên thuỷ đòi hòi sự hợp tác lao động của nhiều người, của cả thị tộc.
- Thức ăn kiếm được chưa nhiều, chưa đều đặn. Mọi người còn phải cùng làm, cùng cố gắng đến mức cao nhất để kiếm sống nên người ta thấy cần phải công bằng, phải được hưởng thụ bằng nhau.
⟹ Như vậy, trong thị tộc không chỉ có sự hợp tác mà mọi của cải, mọi sinh hoạt được coi là của chung, việc chung, làm chung, ăn chung. Điều này thể hiện tính cộng đồng của thị tộc.
Câu 3:
* Tích cực:
- Từ nửa sau thế kỉ XVII, nông nghiệp dần dần ổn định trở lại và phát triển ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài.
+ Nhân dân tiếp tục khai hoang, diện tích đất canh tác được mở rộng, nhất là Đàng Trong.
+ Thủy lợi được củng cố: bồi đắp đê đập, nạo vét mương máng.
+ Giống cây trồng phong phú. Nghề trồng vườn với các loại cây ăn quả cũng phát triển.
+ Nhân dân đúc rút được nhiều kinh nghiệm thông qua thực tế sản xuất.
* Hạn chế:
- Ruộng đất ngày càng tập trung trong tay địa chủ phong kiến.
Năng suất lao động vượt xa thời đại đồ đá, khai thác những vùng đất đai mới, cày sâu cuốc bẫm, xẻ gỗ đóng thuyền, xẻ đá xây lâu đài. Đặc biệt quan trọng là từ chỗ bấp bênh tới chỗ đủ sống, con người làm ra một lượng sản phẩm thừa thường xuyên.
- Con người đã khai phá được những vừng đất mà trước đây chưa khai phá nổi.
- Con người có thể làm ra một lượng sản phẩm thừa thường xuyên để nuôi sống mình.
- Con người có óc sáng tạo, họ bắt đầu biết khai thác từ thiên nhiên cái cần thiết cho cuộc sống của mình.
- Con người biết dùng đồ trang sức: vòng tay, vòng cổ chân, hoa tai ...
Câu 2
- Con người đã khai phá được những vừng đất mà trước đây chưa khai phá nổi.
- Con người có thể làm ra một lượng sản phẩm thừa thường xuyên để nuôi sống mình.
- Con người có óc sáng tạo, họ bắt đầu biết khai thác từ thiên nhiên cái cần thiết cho cuộc sống của mình.
- Con người biết dùng đồ trang sức: vòng tay, vòng cổ chân, hoa tai ...
Câu 3
- Trong xã hội nguyên thủy, sự công bằng và bình đẳng là “nguyên tắc vàng”. Bởi lúc ấy, tình trạng đời sống còn quá thấp, người ta sống trong cộng đồng, dựa vào nhau.
- Nhưng khi công cụ bằng kim loại xuất hiện, năng suất lao động tăng, của cải làm ra không chỉ nuôi sống con người mà còn dư thừa thường xuyên.
- Trong xã hội, một số người giữ chức phận khác nhau như: chỉ huy dân binh, chuyên trách về nghi lễ hoặc điều hành các công việc chung của thị tộc, bộ lạc,... Những người này lợi dụng chức phận để chiếm một phần sản phẩm của xã hội cho riêng mình. Chẳng bao lâu, họ có nhiều của cải hơn người khác.
⟹ Thế là tư hữu bắt đầu xuất hiện.