Viết bài nghị luận về câu thơ sau: Con đường lên dạo cung trăng Xưa là hư ảo, nay gần tấc gang Sao đường ở giữa thế gian Người không mở được lối sang với người
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
1. Mở bài:
- Dẫn dắt
- Nêu luận điểm chung và khác nhau
2. Thân bài:
LĐ1: Với "Cảnh Khuya", Hồ Chí Minh đã bộc lộ lòng yêu thiên nhiên, đất nước rất tha thiết.
Yêu thiên nhiên:
- Mở các giác quan để cảm nhận thiên nhiên:
+ Thính giác: tiếng suối = tiếng hát xa (cảm nhận tinh tế)
+ Thị giác: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa (phân tích hình ảnh này ở phương diện trực tiếp và gián tiếp => rất khéo)
- Tâm hồn của Người:
+ Yêu thiên nhiên: Trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ, tâm hồn của Người vẫn rất ung dung, khoan khoái trước vẻ đẹp kì diệu mà thiên nhiên ban tặng.
+ Yêu nước thương dân: lo lắng cho vận mệnh nước nhà
* Bất chấp hoàn cảnh tù ngục, bất chấp song sắt thô bạo của nhà tù, Hồ Chí Minh vẫn để cho tâm hồn mình bay bổng, vẫn say sưa thưởng thức vẻ đẹp của vầng trăng sáng. Đó chính là tình yêu thiên nhiên
tha thiết, là sự giao hòa mãnh liệt với vẻ đẹp thiên nhiên, là tâm hồn luôn trân trọng và khát khao cái Đẹp của người nghệ sĩ.
* Bài thơ cũng cho thấy sức mạnh tinh thần kì diệu của người chiến sĩ đã để tâm hồn mình vượt rakhỏi song sắt tàn bạo của nhà tù để hướng ra ngoài bầu trời tự do, nơi có vầng trăng sáng lung linh. Đó chính là một tinh thần thép, là một phong thái ung dung, một nghị lực cứng cỏi của người chiến sĩ cách mạng.
- Chú ý: Đây là sự kết hợp chặt chẽ và hài hoà tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn nghệ sĩ.
- Những cảm nhận vô cùng tinh tế đã chỉ ra được tình yêu quê hương thiên nhiên đất nước đầy lãng mạn.
LĐ2: Chốn tù ngục khó khăn vẫn không làm tình yêu thiên nhiên đất nước của Tố Hữu phai nhạt mà còn thêm mãnh liệt cùng niềm khát khao tự do chãy bỏng.
- Tâm trạng của người tù khao khát cuộc sống mùa hè ở bên ngoài: Thể hiện qua bức tranh mùa hè.
+ Lúa chiêm, cây trái
+ tiếng ve: có thể là tiếng ve ngoài không gian, có thể là tiếng gọi thôi thúc trong tâm trí nhà thơ, là tiếng gọi của tự do
+ Bắp rây, nắng đào
+ Sáo diều "lộn nhào": khát vọng tự do mãnh liệt
* Những hình ảnh tiêu biểu của mùa hè đã được khắc họa. Tiếng chim tu hú đã thức dậy, nở ra và bắt nhíp cho sự sống: mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ sắc màu, không gian bao la khoáng đạt,... trong cảm nhận người tù. Tất cả thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống, sự nhạy cảm với những biến động của đất trời trong tâm hồn người tù. Người tù ở đây khao khát cuộc sống mùa hè ở bên ngoài, muốn được hòa nhập với thế giới tự do ấy.
- Tâm hồn: nhức nhối, khó chịu
+ Muốn "chết uất"
+ Chân muốn đạp tan phòng
-> Sử dụng động từ mạnh -> muốn toát khỏi lao tù, trở về với tự do
Yêu đất nước
- Niềm khát khao tự do đến cháy bỏng (chú ý đến hoàn cảnh sáng tác bài thơ) : Người thanh niên Tố Hữu lúc này như được chiếu sáng tâm hồn bởi ánh sáng cách mạng. Dường như ông muốn được tự do, được phục vụ đất nước.
- Chú ý: Giọng điệu thiết tha, giản dị.
=> Tâm trạng xuyên suốt cả bài thơ là sự khát khao tự do, tiếng tu hú chinh là tiếng gọi tha thiết của tự do đối với người tù trẻ tuổi. Tiếng tu hú kêu ở đầu bài thơ đã gợi ra cho người tù sự sống tưng bừng của mùa hè, khao khát hòa nhập với mùa hè và cuộc sống bên ngoài, đến kết thúc bài thơ tiếng chim ấy khiến cho người chiến sĩ đang bị giam cảm thấy đau khổ, bực bội vì mất tự do.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại luận điểm
Dẫn dắt, đưa nhận định
II. Thân bài:
1. Giải thích:
Đúng như nhà văn A-na tô-li Phơ-răng đã nói: “Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ một tâm hồn con người”. Có nghĩa là đọc một câu thơ, chúng ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ mà còn cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ gửi gắm trong đó. Bởi thơ là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm con người. Mỗi câu thơ ra đời là kết quả của những trăn trở, suy tư, nung nấu ở người nghệ sĩ.
2. Chứng minh:
HS tìm các phương diện vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ của cả hai bài thơ để phân tích. (Hoặc có thể phân tích vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ theo từng bài thơ). Sau đây là gợi ý:
a. LĐ 1: Dù sống trong ngục tù nhưng những người chiến sĩ vẫn dành cho thiên nhiên một tình yêu sâu sắc:Trong bài thơ “Khi con tu hú”, tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống khiến người tu tưởng tượng một mùa hè chan hoà ánh sáng, rực rỡ sắc màu rộn ràng âm thanh và ngọt ngào hương vị (dẫn chứng)Bài thơ “Ngắm trăng”:Bác nghĩ đến trăng và việc ngắm trăng ngay cả khi bản thân bị giam cầm, đày đọa. Người thấy thiếu mọi nghi thức thông thường. Cái thiếu “ rượu” và “hoa” là cái thiếu của một thi nhân chứ không phải là cái thiếu của một tù nhân (dẫn chứng)Sự xốn xang, bối rối rất nghệ sĩ trước cảnh đẹp đêm trăng của Bác (dẫn chứng)Sự giao hoà tự nhiên, tuyệt vời giữa con người và vầng trăng tri kỷ. Qua nghệ thuật đối và nhân hoá làm nổi bật tình cảm song phương, cho thấy mối quan hệ gắn bó tri âm giữa trăng và người (dẫn chứng)b. LĐ 2: Họ luôn khao khát tự do mãnh liệt:Niềm khao khát mãnh liệt về với tự do còn được bộc lộ trực tiếp trong những câu cuối: d/c. Cách ngắt nhịp độc đáo, kết hợp với những từ ngữ mạnh (đập tan phòng, chết uất) và những từ cảm thán (ôi, làm sao, thôi) làm nổi bật cái cảm giác ngột ngạt cao độ, niềm khao khát cháy bỏng muốn thoát ra khỏi cảnh ngục tù để trở về với cuộc sống tự do bên ngoài. Tiếng chim tu hú mở đầu và kết thúc bài thơ đã tạo nên một sự hô ứng. Tiếng chim ban đầu là âm thanh đẹp của tự nhiên gợi lên trong tâm hồn người tù cách mạng trẻ tuổi một mùa hè tự do, khoáng đạt đầy sức sống. Còn tiếng chim tu hú ở cuối bài thơ lại là âm thanh giục giã, như thúc giục những hành động sắp tới.Còn Bác luôn hướng ra ánh sáng. Đó là vầng trăng, là bầu trời, là tự do và đó cũng là hy vọng, là tương lai.c. LĐ 3: Người chiến sĩ cộng sản ấy cũng mang một phong thái ung dung, lạc quan trong bất kỳ hoàn cảnh nào: Hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà tù Tưởng Giới Thạch không trói buộc được tinh thần và tâm hồn người tù, không làm mất đi nét thư thái ung dung vốn sẵn có ở Bác. Bác tự do rung động với vầng trăng, với cảnh đẹp bất chấp hoàn cảnh, bất chấp cái song sắt tàn bạo - biểu tượng cụ thể của nhà tù (cuộc vượt ngục tinh thần).
3. Tổng hợp:Như vậy, qua hai bài thơ, người đọc sẽ hiểu hơn về tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản khi ở trong tù. Và vẻ đẹp tâm hồn của họ là cội nguồn tạo nên vẻ đẹp, giá trị tác phẩm.Đọc thơ hay, gặp gỡ tâm hồn người nghệ sĩ, người đọc thơ được thanh lọc, hoàn thiện tâm hồn mình.III. Kết bài: Khẳng định lại nhận định và cảm nghĩ, liên hệ
Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị Đường thi, được nhiều người ưa thích.
Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch bài thơ:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Bài thơ rút trong “Nhật kí trong tù”; tập nhật kí bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đọa đày đau khổ, từ tháng 8 -1942 đến tháng 9 -1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết.
Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cũng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động khi vầng trăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Ánh trăng mang đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.
Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?
“Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.
Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghĩa sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…
Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lí, vì người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần ở ngoài lao”.
Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỉ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hòa giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa thân kì diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đày, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.
Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng… Tuổi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, "… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng lên…”. Trăng tròn, trăng sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.
Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng thức một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao nói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi; trăng thề nguyền, trăng chia li, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều; “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ…
Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay - “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.
TK:
Trước chùm thơ "Trung thu" là bài thơ "Ngắm trăng". Hồ Chí Minh đã viết "Ngắm trăng" vào mùa thu năm 1942, đó là bài số 21 trong "Ngục trung nhật kí". Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch thơ:
"Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".
Bài thơ viết về một cảnh ngắm trăng, một tư thế ngắm trăng trong tù, qua đó biểu hiện một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại của nhà thơ - chiến sĩ.
. Hai câu thơ đầu nói lên một cảnh ngộ và một nỗi niềm: lòng bối rối biết làm thế nào trước cảnh đẹp đêm nay vì không có rượu có hoa để thưởng ngoạn? Trong tù phải chia nước, khẩu phần là lưng bát cháo loãng, muỗi rệp, phải đắp chăn giấy,... thiếu thốn và cay đắng vô cùng. Vậy tìm đâu ra rượu và hoa để ngắm cảnh đẹp đêm thu trong tù. Rượu, trăng, hoa là 3 thú vui tao nhã của thi nhân xưa nay. Câu đầu như một lời tự an ủi:
"Trong tù không rượu cũng không hoa".
Trước cảnh đẹp đêm thu, thiếu rượu và hoa, thi nhân băn khoăn, bối rối "biết làm thế nào?". Đó là tâm trạng, là bi kịch của một thi nhân có tâm hồn thanh cao và giàu tình yêu thiên nhiên:
"Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ".
Câu thơ chưa nói đến trăng mà người đọc đã cảm thấy một vầng trăng đẹp xuất hiện.
Hai câu 3, 4 nói vầng trăng mới xuất hiện. Một cảnh ngắm trăng hiếm có:
"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".
Câu thơ chữ Hán nào cũng có hai hình ảnh đối chiếu: "nhân - nguyệt", "nguyệt - thi gia" và điệp từ "khán" (xem, nhìn, nhòm). Chữ "nhân" là người, đã biến thành "thi gia" - nhà thơ mang ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc. Từ trong ngục tối, người chiến sĩ ngắm trăng qua song sắt nhà tù. Tư thế ngắm trăng ấy rất đẹp, như một cuộc "vượt ngục tinh thần". Trăng được nhân hóa có gương mặt và ánh mắt: "Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ". Nhà thơ và trăng lặng lẽ nhìn nhau, cảm thông, chia sẻ với mối tình tri âm tri kỉ, cùng "đối diện đàm tâm". Hai câu 3, 4 đối nhau, ngôn ngữ, hình ảnh cân xứng, hài hòa. Trăng và nhà thơ, hai gương mặt trong sáng, hai lâm hồn thanh cao dừ bị song sắt nhà tù ngăn cách vẫn gần gũi sâu nặng ân tình. Có thể nói đây là 2 câu thơ trăng đẹp nhất, độc đáo nhất. Đã mấy ai ngắm trăng qua song sắt nhà tù? Tư thế ngắm trăng của Hồ Chí Minh thể hiện tình yêu trăng, biểu lộ một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại. Nó còn biểu lộ khát vọng tự do; từ bóng tối ngục tù hướng về vầng trăng sáng, nhà thơ khẳng định một tâm thế:
"Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao".
Nhà văn Hoài Thanh nhận xét: "Thơ Bác đầy trăng", "Nhật kí trong tù" có 7 bài thơ nói đến trăng. Một thế giới trăng hữu tình và chứa chan thi vị:
- "Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt,
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu" (Trung thu)
- "Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,
Nhòm song,
Bắc đẩu đã nằm ngang". (Đêm lạnh)
- "Trên trời, trăng lướt giữa làn mây". (Đêm thu)
- v.v...
"Ngắm trăng" và thế giới trăng ấy phản chiếu một hồn thơ "mênh mông bát ngát tình". Ngắm trăng vì yêu trăng cũng là yêu tự do
tham khảo
Bài thơ ngắm trăng được trích từ tập thơ này. Bài thơ ghi lại cảnh ngắm trăng trong tù từ đó nói lên tình yêu trăng yêu thiên nhiên tha thiết mong muốn được hòa mình vào trong thiên nhiên cảnh vật. Trong câu thơ đầu tác giả đã kể ra những thiếu thốn trong tù: "Trong tù không rượu cũng không hoa".
TK+
Bài thơ viết về một cảnh ngắm trăng, một tư thế ngắm trăng trong tù, qua đó biểu hiện một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại của nhà thơ – chiến sĩ. Hai câu thơ đầu nói lên một cảnh ngộ và một nỗi niềm: lòng bối rối biết làm thế nào trước cảnh đêm nay vì không có rượu có hoa?Lòng yêu trăng tha thiết và bản lĩnh thép của người cộng sản đã tạo nên cuộc vượt ngục tinh thần kì thú. Sự hòa quyện chất tình và chất thép, cùng với nghệ thuật đối ý và nhân hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Ngắm trăng mở đầu bằng chút bối rối của người tù - thi sĩ trước cảnh trăng đẹp. Bởi đây là cảnh ngắm trăng đặc biệt - ngắm trăng trong tù. Trong tù không rượu, không hoa là chuyện dĩ nhiên, Người thừa hiểu đó nhưng vẫn nhắc đến với hai lần nhấn mạnh từ vô (không) như lời tạ lỗi cùng trăng - người bạn tri âm, tri kỉ. Đó là chút bối rối rất nghệ sĩ. Bởi chỉ có những nghệ sĩ chân chính mới biết yêu thương sâu sắc và xúc cảm tinh tế trước vẻ đẹp thiên nhiên.
Với bài thơ này, bên cạnh cái hiện thực trơ trụi của nhà tù thì niềm băn khoăn nghệ sĩ ấy càng bộc lộ bản lĩnh vững vàng của người tù, bất chấp và vượt lên hoàn cảnh thực tại để giữ nguyên vẹn tâm hồn nhạy cảm, luôn biết yêu quý, rung động trước cái đẹp thiên nhiên và cuộc sống.
Sau phút băn khoăn, bối rối là phút giao cảm tuyệt đẹp giữa người và trăng, thi nhân và bạn tâm tình. Đây là mối giao hòa thầm lặng mà tha thiết, sâu lắng. Chẳng có gì, chỉ có tấm lòng đôi bạn tâm giao thu vào một chữ khán (ngắm). Hai câu có sử dụng phép đối trong luật thơ Đường. Nhân hướng - nguyệt tòng; minh nguyệt - thi gia (câu trên và câu dưới).
Lại đối ở chữ đầu và cuối mỗi câu thơ: nhân - nguyệt; nguyệt - thi gia. Thể hiện sự quấn quýt, tâm giao giữa người và trăng. Hình thức và cấu trúc câu thơ làm rõ cảnh ngắm trăng trong tù: hai câu đầu là người và trăng, chen vào giữa sừng sững những chiếc chấn song sắt của nhà tù ngăn cách thô bạo.
Nhưng bất chấp cái chấn song sắt lạnh lùng, ghê tởm kia, người vẫn đến với trăng, vẫn say đắm ngắm trăng và trăng cũng đến với người say sưa ngắm người. Câu thơ có sự phá cách của luật đối thơ Đường: song - song, khán - khán. Hai chữ song - song như bức tường nhà tù dựng lên ngăn cách người và trăng thì lập tức đã có khán - khán chọi lại.
Đó là chiến thắng của tình người, lòng yêu thiên nhiên, yêu trăng tha thiết của Bác. Phút giao cảm thăng hoa kì diệu đã xảy ra. Hình như ngục tù phút chốc biến mất, chấn song sắt lạnh biến mất, chỉ còn thi nhân và vầng trăng tri âm. Hoàn cảnh là trói buộc, giam cầm, nhưng sức sống con người là vô hạn. Và nơi tù ngục, với Hồ Chí Minh, hướng đến trăng sáng (minh nguyệt) chính là hướng tới tự do - khao khát cháy bỏng của Người.
tham khảo
Con người sinh ra đều là số 0 tròn trĩnh. Mỗi chúng ta cần phải cố gắng vươn lên và tạo lập riêng cho bản thân mình một cuộc sống tốt đẹp hơn, rèn luyện cho mình những đức tính tốt đẹp. Một trong số những đức tính tốt đẹp mà chúng ta cần rèn luyện chính là khiêm tốn và không kiêu căng, tự mãn. Khiêm tốn trái với kiêu căng, tự mãn, khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mực trong việc đánh giá bản thân, những việc mình đã làm. Tính kiêu căng và tự mãn xuất phát từ tầm hiểu biết hạn hẹp của con người, chỉ mới được người khác khen ngợi chút xíu đã đâm ra huênh hoang, cao ngạo, cho mình là hơn người, đây là một tính cách vô cùng xấu của con người. Bên cạnh đó, tính kiêu căng và tự mãn còn bắt nguồn từ một số người tuy có năng lực hoặc có được một thành tựu nhỏ cho bản thân mình thì lại khoe khoang, cho mình hơn người, không ai có thể bằng mình, từ đó dẫn đến chủ quan và thất bại trong cuộc sống. Người kiêu căng và tự mãn sớm muộn cũng bị người khác xa lánh, không được tin tưởng, tín nhiệm, lâu dần trở nên cô lập, sẽ không nhận được sự giúp đỡ, tương trợ của mọi người. Nếu con người bỏ được tính kiêu căng và tự mãn sẽ trở nên khiêm tốn, đáng yêu, nhận được sự yêu quý của mọi người xung quanh, cuộc sống của người đó sẽ trở nên tốt đẹp hơn và cộng đồng cũng trở nên tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận rằng trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có những con người sống với lòng khiêm tốn cùng nhiều đức tính tốt đẹp khác được mọi người yêu quý, tin tưởng và tín nhiệm. Lại có những người tuy trước đây họ kiêu căng tự mãn nhưng họ đã rút ra kinh nghiệm cho bản thân và sửa đổi để tốt hơn,… những người này xứng đáng là tấm gương để học tập theo. Mỗi con người được sống một lần duy nhất và chúng ta được lựa chọn cho mình các sống. Hãy sống thật tích cực, ý nghĩa, tạo dựng cho cuộc đời những giá trị tốt đẹp.
Tuyết rơi trắng xóa bên ngoài cửa sổ. Tôi đang là một sinh viên đang học ngành Luật ở nước ngoài, và tôi thì đang ngồi bên cửa sổ để ngắm nhìn tuyết buổi sáng ở trời phương Tây. Bầu trời phương Tây tuy có lạnh nhưng những hồi ức về bếp lửa nơi quê nhà đã thổi luồng hơi ấm làm xua tan đi cái lạnh ấy. Nỗi nhớ quê, có bà nội có day dứt khôn nguôi. Hơi ấm của lửa tràn khắp căn bếp nhỏ sưởi ấm tâm hồn đơn côi của hai bà cháu, sưởi ấm sự chờ mong và niềm tin vào ngày mai chiến thắng.
Tuổi thơ của tôi gắn liền với chiếc bếp lửa và bà. Tôi sống bên cạnh bà, cùng với bà nhóm lửa và trải qua nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Nhớ lại lúc ấy, tôi không khỏi xúc động. Bọn Pháp thật là gian ác ! Chỉ vì chính sách cai trị của chúng mà cả nước, cũng như gia đình tôi bị nạn đói khủng khiếp. Gia đình thì đói mòn đói mỏi. Cả con ngựa mà cha tôi dùng để đi đánh xa chở hàng thuê cũng đói rạc, gầy đi trông thấy. Cả xóm làng điêu tàn tràn ngập trong mùi khói, khói mù mịt xóm làng. Đến giờ, khi nghĩ lại, sống mũi vẫn còn cay, nước mắt cứ chực ứa ra.
Tám năm ròng ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều tôi đều cũng với bà nhóm bếp lửa. Bà ơi, liệu bà có nhớ, bà đã kể cho cháu nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Bà có nhớ bà đã dạy cháu những điều hay, lẽ phải, bà như một người cô giáo đầu tiên của cháu vậy … Lúc này, nghĩ về khi xưa, tôi cứ muốn được ở cùng với bà, muốn được như khi xưa, lớn lên trong sự chăm sóc và dạy bảo của bà. Nhờ có bà dạy cháu làm, nhờ có bà chăm cháu học mà tôi mới được như ngày hôm nay. Cứ mỗi lúc nghe được tiếng chim tu hú, tôi nghĩ thầm: “Tu hú ơi ! Tại sao cậu chẳng đến ở cùng bà ? Bà đã khó nhọc, tảo tần, tại sao cậu không đến ở cùng bà mà kêu chi hoài trên những cảnh đồng xa ?” Chưa hết, lòng tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong khi được nghe chim tu hú kêu.
Tôi đã bật khóc khi nhớ lại năm ấy, giặc càn vào đốt làng tôi cháy tàn, cháy rụi. Làng xóm, họ hàng chung quanh đã giúp tôi với bà dững lại túp lều tranh để che mưa, che nắng. Nhớ lại lúc đó, tuy thế, bà vẫn vững lòng bảo tôi:
- Bố ở chiến khu còn việc của bố cần làm. Mày có viết thư chớ kể ra những việc này, việc nọ để bố mày yên tâm làm việc, chỉ cần bảo rằng nhà vẫn bình yên vô sự, không có chuyện gì cả.
“ Chao ôi ! Bà không những là một người bà hết lòng vì mình, mà còn nghĩ đến cả bố, là một người bà có hy sinh vì con mình. Mình thật khâm phục, mình nhất định sẽ học tập bà !” – Tôi thầm nghĩ. Biết thế, tôi càng hiểu lòng bà và yêu quý bà nhiều hơn !
Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cỏi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng . Hình ảnh bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa do tay bà nhóm lên toả hơi ấm khắp căn lều nhỏ và suởi ấm lòng tôi, khơi dây ở tôi những tâm tình của thời thơ dại. Bếp lửa là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà, đời bà gặp nhiều nắng mưa. Ngày ngày bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, bà nhóm lên những bếp lửa ấp iu nồng đượm, bà nhóm niềm yêu thương, nhóm khoai sắn ngọt bùi, bà nhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vui và nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Bà có biết không khi bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui , sự sống, niềm yêu thương chi chút dành cho cháu và mọi người, và bà cũng chính là người nhóm lửa, giử lửa, truyền lửa, truyền niềm tin , sự sống cho cháu, giúp cho cháu thấy rằng hình ảnh bếp lửa thật thiêng liêng và kỳ lạ biết bao !
Nay, tôi có những niềm vui, tình cảm và bến bờ mới. Nhưng bà ơi, dù Tổ quốc đã chấp cánh cho cháu bay vào bầu trời thênh thang của tri thức khoa học, nhưng cháu vẫn mãi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở nơi quê nhà. “Sớm mai hôm này, bà đã nhóm lên bếp lửa của ngày xưa chưa ?” – Tôi tự hỏi chính mình.
Những gì là thân thiết nhât của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phải không các bạn ? Và trong tuổi thơ tôi, tôi sẽ vẫn nhớ mãi và không quên hình ảnh của chiếc bếp lửa chờn vờn, cháy bập bùng và hình ảnh của người bà thân thương đã tần tảo sớm hôm nuôi tôi, dạy tôi học. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẽ đẹp tần tảo , nhẫn nại và đầy yêu thương .Cháu sẽ mãi không quên bà !
Bài nghị luận về câu thơ:
Câu thơ "Con đường lên dạo cung trăng / Xưa là hư ảo, nay gần tấc gang / Sao đường ở giữa thế gian / Người không mở được lối sang với người" là những suy ngẫm sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội hiện đại. Được viết bởi nhà thơ Hữu Thỉnh trong bài "Con đường" (trích từ tập "Cát bụi"), câu thơ phản ánh sự cô đơn, xa cách trong xã hội, đồng thời thể hiện sự nghịch lý của thời gian và những bi kịch của con người khi không thể kết nối với nhau.
1. Con đường xưa và nay – Sự thay đổi trong nhận thức
"Con đường lên dạo cung trăng / Xưa là hư ảo, nay gần tấc gang" là hình ảnh mượn từ sự so sánh về con đường lên cung trăng – một khái niệm gắn liền với ước mơ, lý tưởng. Ngày xưa, con đường lên cung trăng chỉ là điều hư ảo, xa vời, là khát vọng không thể đạt được. Thế nhưng, "nay gần tấc gang", con đường ấy đã trở nên gần gũi hơn, tưởng như có thể đạt được. Có thể hiểu rằng, với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, những điều tưởng như không thể, khó khăn như việc lên cung trăng, giờ đây có thể chạm gần tới. Tuy nhiên, sự gần gũi ấy lại không đồng nghĩa với sự thật và hạnh phúc.
2. Nghịch lý giữa sự gần gũi và xa cách
Dù con đường lên cung trăng nay đã "gần tấc gang", nhưng "Sao đường ở giữa thế gian / Người không mở được lối sang với người" lại thể hiện một nghịch lý sâu sắc. Dù con đường vật lý có thể thu hẹp lại, nhưng mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội lại ngày càng trở nên xa cách. Con đường giữa người với người, dù gần đến đâu, nhưng vì sự thiếu thấu hiểu, tình cảm và sự đồng cảm, không ai có thể thực sự "mở lối" sang với nhau. Đây là một sự phản ánh đau xót về sự cô đơn trong xã hội hiện đại, khi mỗi người, dù ở gần nhau về không gian, nhưng lại cảm thấy cách biệt về tâm hồn, cảm xúc và lý tưởng.
3. Ý nghĩa nhân văn và lời nhắc nhở về giá trị con người
Qua câu thơ, nhà thơ không chỉ nói về một sự thực hiển nhiên trong xã hội, mà còn nhấn mạnh giá trị của mối quan hệ giữa con người với nhau. Mặc dù công nghệ hiện đại đã giúp thu hẹp khoảng cách về không gian, nhưng không thể thay thế được tình cảm, sự quan tâm chân thành và thấu hiểu lẫn nhau. Đó là lời nhắc nhở cho mỗi chúng ta, rằng con đường kết nối giữa người với người không chỉ là con đường vật lý, mà còn là con đường của tình cảm, của sự sẻ chia và tình yêu thương. Nếu không mở được lối sang với nhau bằng tấm lòng, dù có gần nhau đến đâu, con người cũng sẽ mãi ở trong sự cô đơn và xa cách.
4. Sự hoài niệm và khát vọng đoàn kết
Câu thơ cũng chứa đựng sự hoài niệm về một quá khứ khi con người còn gần gũi và yêu thương nhau hơn. Có thể nhìn nhận đó là một lời kêu gọi về sự cần thiết của việc xây dựng một xã hội đoàn kết, yêu thương và đồng cảm, nơi mà mỗi con người không cảm thấy cô đơn hay bị bỏ rơi. Trong khi "con đường lên cung trăng" là một ước mơ xa vời, thì con đường mở lối giữa người với người lại là một khát vọng có thể thực hiện ngay trong cuộc sống hiện tại, nếu mỗi chúng ta biết trân trọng và quan tâm đến người khác.
Kết luận
Câu thơ "Con đường lên dạo cung trăng / Xưa là hư ảo, nay gần tấc gang / Sao đường ở giữa thế gian / Người không mở được lối sang với người" của Hữu Thỉnh là một suy ngẫm sâu sắc về sự thay đổi trong xã hội hiện đại. Dù con đường vật lý có thể trở nên gần gũi hơn, nhưng con đường tâm hồn, tình cảm giữa con người với con người vẫn cần phải được mở ra bằng tình yêu thương, sự sẻ chia và thấu hiểu. Đây là một bài học nhân văn quý giá về giá trị của mối quan hệ giữa con người trong xã hội ngày nay.