K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Trần Nhân Tông, tên thật là Trần Khâm, chào đời vào ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông là con trai trưởng của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều và vua Trần Thánh Tông. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Khâm từ khi sinh ra đã có “sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng”, vì thế vua cha và ông nội, Thái thượng hoàng Trần Thái Tông, đã gọi ông là Kim...
Đọc tiếp

Trần Nhân Tông, tên thật là Trần Khâm, chào đời vào ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông là con trai trưởng của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều và vua Trần Thánh Tông. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Khâm từ khi sinh ra đã có “sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng”, vì thế vua cha và ông nội, Thái thượng hoàng Trần Thái Tông, đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử. Trên vai trái của ông có một nốt ruồi đen lớn như hạt đậu, người xem tướng đoán rằng ông sẽ làm nên việc lớn.

Năm 1274, khi Trần Khâm 16 tuổi, vua cha đã phong ông làm Hoàng thái tử, mặc dù ông từ chối ngôi vị nhưng vua cha không đồng ý. Sau đó, vua Trần Thánh Tông cũng quyết định lập con gái cả của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Thái tử phi cho Trần Khâm. Mặc dù có cuộc sống gia đình hạnh phúc, ông vẫn yêu thích tu hành. Ông nghiên cứu kỹ về tam giáo Phật – Lão – Nho, đồng thời đạt trình độ cao trong các lĩnh vực khác như quân sự, lịch số học, thiên văn học và âm nhạc.

Với chí hướng xuất gia theo Phật, ông nhiều lần xin nhường ngôi Thái tử cho em là Trần Đức Việp nhưng không được vua cha chấp thuận. Một lần, vào đêm khuya, ông vượt thành đi vào núi Yên Tử. Khi vua Trần Thánh Tông và Hoàng hậu biết tin, họ sai quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô. Ông miễn cưỡng quay về cung thành.

Năm 1278, ông lên ngôi và lấy niên hiệu là Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, khi đó, độc lập của Đại Việt đang bị đe dọa bởi quân Nguyên – Mông từ phương Bắc. Vì thế, khi quân Nguyên – Mông xâm lược, ông gác lại việc tu học Phật pháp, sử dụng tài mưu lược sáng suốt và khả năng đoàn kết toàn dân để đánh giặc. Kết quả, ông cùng các tướng lĩnh đã hai lần đánh tan quân Nguyên – Mông, bảo vệ bờ cõi nước nhà.

Năm 1293, sau 14 năm trị vì, ông nhường ngôi cho Trần Thuyên (vua Trần Anh Tông sau này). Đến tháng 10 năm 1299, ông xuất gia tu hành tại núi Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay), lấy hiệu là Trúc Lâm đại đầu đà, trở thành thủy tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Từ năm 1298, ông mặc áo nhà sư và đi thuyết pháp. Lý thuyết Phật giáo nhập thế do ông khởi xướng đề cao tính giáo dục lòng nhân đạo và luôn nhớ đến cội nguồn, chứ không kêu gọi tín đồ lìa bỏ cuộc sống trần tục, cũng không ép tu hành khổ hạnh. Buổi giảng kinh của ông thu hút hàng nghìn người đến nghe và tiếp thu tư tưởng.

Năm 1308, Trần Nhân Tông qua đời tại am Ngọa Vân trên núi Yên Tử. Với những đóng góp to lớn cho dân tộc và sự phát triển rực rỡ của triết học Phật giáo Việt Nam, ông được người đời suy tôn là Phật hoàng Trần Nhân Tông, tức vua Phật của Việt Nam.

 
1
8 tháng 11

Trần Nhân Tông, tên thật là Trần Khâm, chào đời vào ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông là con trai trưởng của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều và vua Trần Thánh Tông. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Khâm từ khi sinh ra đã có “sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng”, vì thế vua cha và ông nội, Thái thượng hoàng Trần Thái Tông, đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử. Trên vai trái của ông có một nốt ruồi đen lớn như hạt đậu, người xem tướng đoán rằng ông sẽ làm nên việc lớn.

Năm 1274, khi Trần Khâm 16 tuổi, vua cha đã phong ông làm Hoàng thái tử, mặc dù ông từ chối ngôi vị nhưng vua cha không đồng ý. Sau đó, vua Trần Thánh Tông cũng quyết định lập con gái cả của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Thái tử phi cho Trần Khâm. Mặc dù có cuộc sống gia đình hạnh phúc, ông vẫn yêu thích tu hành. Ông nghiên cứu kỹ về tam giáo Phật – Lão – Nho, đồng thời đạt trình độ cao trong các lĩnh vực khác như quân sự, lịch số học, thiên văn học và âm nhạc.

Với chí hướng xuất gia theo Phật, ông nhiều lần xin nhường ngôi Thái tử cho em là Trần Đức Việp nhưng không được vua cha chấp thuận. Một lần, vào đêm khuya, ông vượt thành đi vào núi Yên Tử. Khi vua Trần Thánh Tông và Hoàng hậu biết tin, họ sai quân đi tìm và thỉnh cầu ông về kinh đô. Ông miễn cưỡng quay về cung thành.

Năm 1278, ông lên ngôi và lấy niên hiệu là Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, khi đó, độc lập của Đại Việt đang bị đe dọa bởi quân Nguyên – Mông từ phương Bắc. Vì thế, khi quân Nguyên – Mông xâm lược, ông gác lại việc tu học Phật pháp, sử dụng tài mưu lược sáng suốt và khả năng đoàn kết toàn dân để đánh giặc. Kết quả, ông cùng các tướng lĩnh đã hai lần đánh tan quân Nguyên – Mông, bảo vệ bờ cõi nước nhà.

Năm 1293, sau 14 năm trị vì, ông nhường ngôi cho Trần Thuyên (vua Trần Anh Tông sau này). Đến tháng 10 năm 1299, ông xuất gia tu hành tại núi Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay), lấy hiệu là Trúc Lâm đại đầu đà, trở thành thủy tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Từ năm 1298, ông mặc áo nhà sư và đi thuyết pháp. Lý thuyết Phật giáo nhập thế do ông khởi xướng đề cao tính giáo dục lòng nhân đạo và luôn nhớ đến cội nguồn, chứ không kêu gọi tín đồ lìa bỏ cuộc sống trần tục, cũng không ép tu hành khổ hạnh. Buổi giảng kinh của ông thu hút hàng nghìn người đến nghe và tiếp thu tư tưởng.

Năm 1308, Trần Nhân Tông qua đời tại am Ngọa Vân trên núi Yên Tử. Với những đóng góp to lớn cho dân tộc và sự phát triển rực rỡ của triết học Phật giáo Việt Nam, ông được người đời suy tôn là Phật hoàng Trần Nhân Tông, tức vua Phật của Việt Nam.

Sau khi từ bỏ ngai vàng, Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử tu hành, khoác áo cà sa và đi thuyết pháp khắp nơi. Ông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, với tư tưởng cốt lõi là Phật giáo nhập thế. Với tài năng khéo léo, ông đã gắn kết một cách hài hòa giữa đạo và đời, hết lòng vì sự phát triển của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân Tông sáng lập mang đậm tinh thần dấn thân vào cuộc sống. Khi tu hành, ông dung hợp ba dòng thiền lớn là Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Đồng thời, ông kết hợp tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo, thể hiện lòng từ bi với tinh thần cởi mở và không phân biệt.

Trần Nhân Tông dành trọn đời mình cho tư tưởng đạo Phật Việt Nam, đồng thời cũng bảo vệ nền độc lập của đất nước. Với những công lao kiệt xuất trong cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển dân tộc, ông được ghi danh là một trong tám vị anh hùng của Việt Nam. Sự nghiệp tu hành và tư tưởng nhập thế của Trần Nhân Tông không chỉ để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Phật giáo mà còn góp phần quan trọng vào sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.

Phật hoàng Trần Nhân Tông là một vị hoàng đế anh minh, lãnh đạo đất nước Đại Việt vượt qua những cuộc xâm lăng khốc liệt của quân Nguyên – Mông, là một nhà tu hành xuất sắc, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền mang đậm bản sắc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là minh chứng rõ ràng cho sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, giữa việc tu hành và trách nhiệm với đất nước và nhân dân. Với tư tưởng nhập thế và lòng từ bi vô hạn, ông đã truyền cảm hứng và để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Phật giáo cũng như trong lòng người dân Việt Nam. Trần Nhân Tông là một biểu tượng của lòng yêu nước, trí tuệ và đức hạnh, mãi mãi được người đời tôn kính và ngưỡng mộ.

5 tháng 8 2023

Tham khảo: 

Vua Lê Thánh Tông là một vị vua anh minh, tài năng, suất sắc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự. Ông còn là một nhà văn lớn, nổi tiếng của dân tộc ở thế kỉ XV. Ông là người sáng lập ra Hội Tao đàn và nhiều tác phẩm văn học chữ Nôm, chữ Hán có giá trị cao. Ông cũng rất quan tâm phát triển nông nghiệp, công thương nghiệp và văn hóa, giáo dục.

Quá trình cải cách hành chính nhà nước của Lê Thánh Tông đã thanh lọc một số chức quan, cơ quan và các cấp chính quyền trung gian. Ông hạn chế quyền lực tập trung quá nhiều vào một cơ quan.

17 tháng 7 2019

Đáp án B

27 tháng 12 2021

A. Trần Nhân Tông.

26 tháng 6 2021

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên kéo dài từ 1258 đến 1288, được chia thành 3 đợt là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới thời các Vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ. Tuy thời gian kéo dài, nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ tổng cộng bao gồm khoảng gần  9 tháng, chia làm 3 đợt

26 tháng 6 2021

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên kéo dài từ 1258 đến 1288, được chia thành 3 đợt là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới thời các Vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của quân Mông-Nguyên. Tuy thời gian kéo dài, nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ tổng cộng bao gồm khoảng gần  9 tháng, chia làm 3 đợt

28 tháng 9 2019

Trước hết ta thu gọn các đơn thức đồng dạng để xác định mỗi chữ cái tương ứng với kết quả nào trong ô trống của bảng.

Giải bài 18 trang 35 SGK Toán 7 Tập 2 | Giải toán lớp 7 Giải bài 18 trang 35 SGK Toán 7 Tập 2 | Giải toán lớp 7 Giải bài 18 trang 35 SGK Toán 7 Tập 2 | Giải toán lớp 7

Sau đó điền chữ cái vào ô tương ứng:

Giải bài 18 trang 35 SGK Toán 7 Tập 2 | Giải toán lớp 7

Vậy tên tác giả cuốn Đại Việt sử kí là LÊ VĂN HƯU.

21 tháng 12 2016

Buổi đầu trị nước

Trần Nhân Tông lên ngôi trong bối cảnh nền độc lập của Đại Việt bị đe dọa trầm trọng. Ở phương Bắc, Nguyên-Mông đã chinh phục hầu hết Nam Tống và bắt đầu dòm ngó Đại Việt. Ngay sau khi Nhân Tông đăng quang, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt cử Thượng thư Bộ Lễ Sài Thung sang Đại Việt, lấy cớ Nhân Tông "không xin mệnh mà tự lập" (nghĩa là tự xưng làm vua mà không chịu xin phép "thiên triều" Nguyên) để ép vua Trần sang triều kiến.[1][5][12] Nhân Tông đã đối đãi tử tế với Sài Thung, nhưng kiên quyết không đi trình diện vua Nguyên. Sài Thung đành phải đi tay không về nước.[5][1][14] Sau đó, Nhân Tông sai Trịnh Đình Toản và Đỗ Quốc Kế sang cống nạp nhà Nguyên. Tháng 12 năm 1279, Hốt Tất Liệt giam cầm Đình Toản ở thành Đại Đô, rồi ép Quốc Kế đi cùng một phái bộ mới của Sài Thung tới Đại Việt với mục đích tương tự lần trước[5][15][1]. Nhân Tông vẫn không nhân nhượng, mặc dù Sài Thung đã dọa nạt rằng nếu vua Trần không sang chầu, "thì hãy sửa sang thành trì của ngươi, để đợi sự phán xét".[5]

Đứng trước hiểm họa xâm lược từ Mông Cổ, Nhân Tông và Thánh Tông đã có nhiều nỗ lực nhằm phát triển kinh tế, đảm bảo sự ổn định và đoàn kết trong nước.[5][16] Một trong những biện pháp là khuyến khích nông dân tăng cường sản xuất, và nhờ vậy, Đại Việt đã "được mùa to, lúa ruộng ở hương Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giò hai bông" (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư) vào cuối năm 1279[1][5][17]. Thêm vào đó, năm 1280, vua Trần ra lệnh hợp nhất hệ thống đo lường để thúc đẩy thương mại trên toàn quốc.[1][5][17] Trên phương diện chính trị-xã hội, triều đình Trần Nhân Tông đã tiến hành điều tra và cập nhật dân số, đồng thời tích cực giải quyết các khiếu nại oan sai của người dân.[1][5][17] Khi thủ lĩnh người dân tộc tại Đà Giang là Trịnh Giác Mật nổi dậy vào đầu năm 1280, Nhân Tông sai Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đi thuyết phục phiến quân quy hàng. Nhật Duật nhờ khéo ngoại giao và hiểu biết văn hóa dân bản địa, nên đã thu phục được Giác Mật mà không phải giao chiến[18].

Về đối ngoại và quân sự, hai vua Trần ứng xử vừa khéo léo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Sau khi tiếp đón Sài Thung lần 3 vào năm 1280, năm 1281 Nhân Tông phái Trần Di Ái cùng Lê Mục, Lê Tuấn thay ông sang chầu vua Nguyên.[19][20] Hốt Tất Liệt vẫn quyết tâm xâm lược phương Nam; nhà Nguyên cử một số quan lại sang giám sát các châu huyện của Đại Việt, nhưng Nhân Tông đã trục xuất những người này về Trung Quốc. Không bỏ cuộc, khoảng năm 1281–1282, hoàng đế nhà Nguyên lập Trần Di Ái làm "An Nam Quốc vương", Lê Mục làm "Hàn lâm học sĩ" và Lê Tuân làm "Thượng thư", rồi lại sai Sài Thung đem 1 nghìn quân hộ tống nhóm Di Ái về bản quốc. Nhân Tông, Thánh Tông đã huy động lực lượng chặn đánh ở ải Nam Quan và bắt giữ nhóm Di Ái, song vẫn nghênh đón Sài Thung về Thăng Long.[15][21] Thất bại của việc lập Di Ái làm vua bù nhìn Đại Việt đã khiến Sài Thung tức giận đến mức khi "vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân [cách gọi khác của Sài Thung] nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp."[16][5] Phải đến khi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đóng giả làm một tăng sĩ Trung Hoa đi vào sứ quán, Thung mới chịu tiếp.[16][5]

Khoảng tháng 9 – 11 năm 1282, nhà Nguyên một mặt cử tướng Toa Đô từ Quảng Châu tấn công Chiêm Thành, mặt khác sai Trấn Nam vương Thoát Hoan tập trung 50 vạn quân chuẩn bị "mượn đường đánh Chiêm" (mà thực chất là xâm lược Đại Việt).[5][20][16] Vào tháng 11, Nhân Tông mở hội nghị Bình Than để thảo luận với bá quan về phương án tổ chức kháng chiến. Hai tháng sau, hai vua Trần phong Trần Quốc Tuấn làm Quốc công Tiết chế – tức tổng chỉ huy toàn quân Đại Việt, đồng thời "chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị".[16]Cùng với Quốc Tuấn, Nhân Tông đã trực tiếp chỉ đạo các hoạt động huấn luyện, diễn tập của lục quân và thủy quân. Tháng 10 năm 1284, triều đình chia quân trấn giữ các địa bàn quan trọng trong cả nước.[16][5] Bên cạnh đó, Nhân Tông vẫn cử một số sứ giả mang lễ vật đi xin Thoát Hoan "hoãn binh" trong nửa cuối năm 1284. [16][5]

Không những đương đầu với người Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã xây dựng mối quan hệ tích cực với nước Chiêm Thành ở phía Nam.[5] Tháng 12 năm 1282, ông đã gửi 2 vạn quân cùng 500 chiến thuyền sang hỗ trợ người Chiêm chặn đánh cánh quân Nguyên của Toa Đô. Nhưng trong các văn thư gửi cho người Nguyên, triều đình Nhân Tông một mực phủ nhận hành động này.

22 tháng 12 2016

Bạn tóm tắt ý lại giúp mk đc ko?

Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308) tên khai sinh là Trần Khâm (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời.

Tích đi mà

HT

20 tháng 12 2021

1628 nhé

21 tháng 2 2022

TK

 Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

21 tháng 2 2022

tham khảo

 

 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam:

+Đảng ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.

+Đảng ra đời đã vạch ra được phương pháp cách mạng đúng đắn.

+Kể từ khi Đảng ra đời, cách mạng Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.

+Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của cách mạng Việt Nam.

18 tháng 8 2019

ĐÁP ÁN D