K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo và đem lại thu nhập cho người dân.

8 tháng 3 2022

Tham khảo :

- Vì giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình , dòng học giúp ta có thêm kinh nghiệm , sức mạnh trong cuộc sống , góp phần làm phong phú truyền thống , bản sắc dân tộc Việt Nam

-  Quảng bá với bạn bè và mọi người về mảnh đất của mình.

- Giới thiệu về nghề truyền thống của gia đình và dòng họ.

- Luôn tự hào về quê hương của mình dù đi đến tận nơi đâu.

22 tháng 10

:c

24 tháng 12 2021

Làng nghề sẽ là nơi để người học nhận thức về truyền thống làng nghề và tay nghề. Từ đó góp phần bảo lưu và xây dựng truyền thống nguyên bản làng nghề Việt Nam. Những nghệ nhân trong các làng nghề sẽ là người phục hồi các dữ liệu đã mất, khôi phục các điển tích, các bí quyết của nghề

HT

24 tháng 12 2021

Làng nghề truyền thống là tài nguyên du lịch nhân văn góp phần thu hút số lượng lớn khách du lịch, làm cho hoạt động du lịch thêm phong phú đa dạng, tạo nên nhiều lựa chọn hấp dẫn cho du khách. Ngoài ra du lịch làng nghề truyền thống còn làm đa dạng các sản phẩm du lịch.

15 tháng 12 2021

câu 2

 

Vì đây là những truyền thống có giá trịu về tinh thần, vô cùng quý giá ,

góp phần tích cực vào quá trình phát triển của dân tộc và mỗi cá nhân.

Những truyền thống đó còn nói lên nét văn hóa, bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam.

 
2 tháng 1 2022

giáo dục địa phương ?????

2 tháng 1 2022

Tham khảo
 

hông ít người thường nhấn mạnh yêu cầu bảo tồn, giữ gìn văn hóa dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa. Điều đó đúng, cần thiết, song có lẽ chưa đầy đủ. Chúng ta hoàn toàn có thể phát huy, phát triển, hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc trong quá trình trên. Bài viết này xuất phát từ suy nghĩ đó, mặc dù đó luôn là một thách thức lớn, đồng thời lại là một thời cơ hiếm có.

1. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế, mà còn mở rộng, lan tỏa, thâm nhập các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi trường đến khoa học, công nghệ, văn hóa, pháp luật, giáo dục,... Chính quá trình tác động và thấm sâu của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vào toàn bộ các lĩnh vực của một dân tộc, một quốc gia mà nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề hệ trọng đối với sự đứng vững, tồn tại và phát triển của từng quốc gia, dân tộc và của từng khu vực trên thế giới trong quan hệ mang tính toàn cầu đang diễn ra cực kỳ phong phú và phức tạp hiện nay. Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn mới mẻ, đối với vấn đề giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa riêng biệt, độc đáo, có tính truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia trong bối cảnh và đặc điểm mới của thế giới hiện đại.

Kết quả của toàn cầu hóa là tạo ra những giá trị chung, là sự xích lại gần nhau, đan xen giữa các quá trình của sự phát triển, đặc biệt trên các lĩnh vực quan trọng như kinh tế, khoa học - công nghệ, thương mại,... Tuy vậy, toàn cầu hóa không có nghĩa là tất cả các quốc gia, các dân tộc sẽ tiến tới một sự đồng nhất về mọi mặt, mà ngược lại, toàn cầu hóa chỉ có thể diễn ra khi đồng thời tạo ra những giá trị phổ quát cho nhiều quốc gia, nhiều dân tộc, mang lại cho các dân tộc những điều kiện và cơ hội tốt để phát huy và phát triển những giá trị riêng, độc đáo, đặc trưng của dân tộc mình. Và điều đó sẽ diễn ra không phải là hệ quả tự nhiên của toàn cầu hóa, mà nhất thiết phải cần một quá trình cùng điều chỉnh, cùng hợp tác và đấu tranh của các quốc gia, dân tộc tham gia toàn cầu hóa. Nêu không làm được điều này, sẽ diễn ra một quá trình mà các thế lực mạnh và đen tối sẽ lái "con tàu" toàn cầu hóa về hướng làm thui chột, làm yếu đi các giá trị văn hóa riêng của từng dân tộc, sẽ thực hiện mưu đồ áp đặt văn hóa, biến các quốc gia khác thành lệ thuộc, tự đánh mất mình trong thế giới hiện đại.

Ở đây, về mặt văn hóa,  trong quá trình toàn cầu hóa, mỗi dân tộc phải đứng trước và luôn luôn phải xử lý mâu thuẫn giữa toàn cầu hóa có xu hướng mạnh, tạo ra các giá trị phổ quát chung với bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của dân tộc. Và đây cũng chính là một đặc điểm riêng trong quan hệ giữa toàn cầu hóa và văn hóa của các dân tộc.

Xin lưu ý rằng, không đơn thuần chỉ là vấn đề bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa của từng dân tộc trước tác động của toàn cầu hóa, mà còn có những vấn đề lớn hơn, sâu hơn: phát huy bản sắc dân tộc trong chính quá trình giao lưu, hợp tác văn hóa, phát triển và tự làm giàu có mình hơn, phong phú, hiện đại hơn trong quá trình chủ động giao tiếp và tiếp nhận, "cho và nhận" về mặt văn hóa. Không nhận biết sâu và biện chứng quá trình trên sẽ dẫn tới một cách nhìn phiến diện, với khuynh hướng bảo thủ cho rằng, để đối phó với toàn cầu hóa, mỗi dân tộc trong khi mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, phải đóng cửa về văn hóa, "khư khư" giữ gìn, bảo vệ các bản sắc riêng của mình, không chấp nhận cả cho và nhận, vốn là một quy luật nội tại của sự tồn tại và phát triển của mỗi nền văn hóa dân tộc.

Một hoạt động trong khuôn khổ “Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Nga” năm 2016 - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ

Một hoạt động trong khuôn khổ “Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Nga” năm 2016 - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ

 

2. Xét về mặt lịch sử và đặc trưng văn hóa, văn hóa Việt Nam không hề xa lạ với sự giao lưu, tiếp nhận, tác động lẫn nhau của văn hóa các nước và văn hóa khu vực. Quá trình này diễn ra không ngừng, theo cả chiều dài lịch sử và theo cả không gian, địa - ván hóa.

Lãnh thổ Việt Nam có một đặc điểm lợi thế là nằm trên vùng đất có sự giao thoa, thâm nhập lẫn nhau của nhiều nền văn hóa. Ngay từ buổi đầu dựng nước, Việt Nam đã có sự giao thoa giữa văn hóa Đông Nam Á với văn hóa Đông Á và sau này, cũng trong một thời gian dài, là giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ. Đến thời cận đại, xuất hiện và phát triển sự giao lưu, tác động lẫn nhau giữa văn hóa châu Á với văn hóa châu Âu trên lãnh thổ Việt Nam. Chính từ đặc điểm này mà ngay từ đầu và trong toàn bộ quá trình phát triển của mình, văn hóa Việt Nam đã trưởng thành, tạo nên những giá trị độc đáo của dân tộc dựa trên một năng lực rất đặc biệt, đó là vừa tự nuôi dưỡng và phát huy những giá trị của chính mình - văn hóa bản địa, vừa biết tiếp nhận, chọn lọc những giá trị tốt đẹp của nhiều nền văn hóa khác. Tính thống nhất, tính nhiều nguồn và tính đa dạng trở thành đặc trưng của văn hóa Việt Nam, không chỉ vì đất nưóc, dân tộc Việt Nam bao gồm 54 dân tộc đã cùng sống, lao động, xây dựng và sáng tạo từ bao đời nay, mà còn vì đó là một nền văn hóa biết tiếp nhận và làm phong phú cho mình bằng những giá trị của nhiều nền văn hóa trên thế giới, cả Đông và Tây, cả gần và xa,...

Có một đặc trưng hay một quy luật cần nhấn mạnh là, trong quá trình giao lưu, tiếp nhận đó, chỉ có những giá trị văn hóa bên ngoài nào phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam, được chọn lọc và được Việt hóa mới có thể trở thành những thành tố hữu cơ cấu thành văn hóa Việt Nam. Sự chọn lọc và sự sàng lọc để trở thành giá trị văn hóa Việt Nam đã diễn ra không ngừng, thầm lặng và cực kỳ tinh tế trong tiến trình lịch sử và tiến trình văn hóa. Ví dụ, những giá trị tốt đẹp của Phật giáo và Nho giáo, từ những thế kỷ đầu Công nguyên, đã qua quá trình sàng lọc đó để những ý tưởng từ bi, bác ái của Phật giáo trong sự hòa quyện với khát vọng hướng thiện, yêu thương con người của dân tộc ta trở thành một phẩm giá đặc trưng của con người Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Đó là chủ nghĩa nhân văn mộc mạc nhưng sâu sắc và bền vững trong văn hóa Việt Nam. Những giá trị đạo đức xã hội mà Nho giáo truyền bá vào Việt Nam từ hàng ngàn năm đã bắt rễ và hòa đồng với những quan điểm và khát vọng đạo đức của văn hóa bản địa Việt Nam, tạo nên những chuẩn mực vững bền về đạo đức của văn hóa truyền thống, được thể hiện từ trong gia đình, làng xóm đến cộng đồng và đất nước.

Đặc điểm trên của văn hóa Việt Nam không chỉ thể hiện trong quá khứ xa xôi, mà cả trong giai đoạn cận và hiện đại, khi mà sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa trên thế giới diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng, phức tạp hơn. Đó là giai đoạn gặp nhau, tác động lẫn nhau, vừa như là sự "đối chọi" lại vừa như là sự "hấp dẫn" lẫn nhau giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Trong tình hình đó, ở Việt Nam đã diễn ra một quá trình rất phong phú, tinh tế để cách tân văn hóa, từng bước hiện đại hóa nền văn hóa truyền thống thông qua tiếp nhận, chọn lọc những giá trị hoàn toàn mới của phương Tây và nỗ lực không mệt mỏi phát huy, giữ gìn những giá trị tốt đẹp, bền vững, phù hợp với sự phát triển của văn hóa dân tộc. Trong mối quan hệ đó, có lẽ, chỉ cần nêu một dẫn chứng mẫu mực là cuộc đời, sự nghiệp văn hóa và những kinh nghiệm ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chứng minh cho bước phát triển và đặc trưng của văn hóa Việt Nam thời kỳ cận và hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước cũng để học hỏi, tìm kiếm những gì tốt đẹp nhất của các nền văn hóa lớn trên thế giới, từ đó Người đã chọn lọc để làm phong phú thêm cho nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta. Ở Người là sự kết hợp tuyệt vờí những tinh hoa của nhiều nền văn hóa thế giới với những giá trị cao quý và bền vững nhất trong văn hóa dân tộc.

Sự thổ lộ chân thành và đánh giá sâu sắc của Người về những giá trị mà Người chọn lọc và tiếp nhận cho mình trong các học thuyết của Khổng Tử, Giêsu, Các Mác và Tôn Dật Tiên là một minh chứng không chỉ về kinh nghiệm ứng xử văn hóa của bản thân Người, mà có lẽ, trở thành một quan niệm tiếp nhận, chọn lọc, sàng lọc của văn hóa dân tộc ta đối với văn hóa thế giói. Theo Người, Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là thích hợp với điều kiện nước ta. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy.

 

Đứng vững trên mảnh đất Việt Nam, xuất phát từ khát vọng chung của dân tộc để giữ gìn, phát huy, khẳng định bản sắc dân tộc đồng thời tiếp nhận qua sàng lọc những giá trị của văn hóa nhân loại, cả Đông và Tây, cả quá khứ lịch sử và hiện đại là phẩm chất, là đặc trưng của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu và hợp tác văn hóa.

 

3. Những đặc điểm, kinh nghiệm lịch sử trong tiến trình đó của văn hóa Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ trong hoạt động thực tiễn nhằm mở rộng và phát triển hợp tác quốc tế về văn hóa của chúng ta những năm đổi mới, những năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và những nghị quyết gần đây, đặc biệt là Nghị quyết 33- NQ/TW vừa qua.

Thành tựu nổi bật của hợp tác quốc tế về văn hóa trong những năm qua là đã triển khai toàn diện các lĩnh vực hợp tác, giao lưu văn hóa, thông tin đối ngoại, mở rộng quan hệ ở nhiều địa bàn, từng bước phát triển sang tất cả các châu lục. Ví dụ, mấy năm gần đây, bước đột phá của hợp tác quốc tế về văn hóa là chúng ta đã tạo được sự hiện diện của văn hóa Việt Nam tại khu vực châu Mỹ và châu Phi. Đồng thời, chúng ta cũng đã tạo được nhiều phương thức, hình thức hợp tác đa dạng, phong phú, phù hợp với từng khu vực, từng nước. Đây là bước phát triển về quy mô và chất lượng của sự hợp tác quốc tế về văn hóa, qua đó đã làm tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ "giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nưóc ngoài", tạo nên sự đồng cảm, hiểu biết và xích lại gần nhau hơn nữa giữa dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới. Đó cũng chính là mặt mạnh, tính ưu việt của hợp tác quốc tế về văn hóa mà chúng ta đã và đang khai thác, phát huy, qua đó, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, con người và cuộc sống Việt Nam thời kỳ đổi mới được bạn bè thế giới hiểu biết rõ hơn, đúng hơn.

Trong sự hợp tác đa dạng đó, chúng ta đã tổ chức thành công nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật ở nước ngoài, đã chủ động lựa chọn, xây dựng, tạo được một số sản phẩm, ấn phẩm, công trình văn hóa, chương trình nghệ thuật có chất lượng cao phục vụ công tác giao lưu và hợp tác, được trình diễn, triển lãm ở nước ngoài. Thời gian qua, chúng ta đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế về văn hóa, nghệ thuật tại các cuộc thi, triển lãm, liên hoan quốc tế. Cùng với lực lượng hoạt động văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, lực  lượng   đông đảo hoạt động văn hóa, nghệ thuật quần chúng của các tổ chức và đoàn thể cũng đã góp phần làm phong phú, đa dạng sự giao lưu văn hóa của nước ta với cả ở trong và ngoài nước.

Những năm gần đây, chúng ta cũng đã triển khai nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật của các nước tại Việt Nam, trong đó có một số hoạt động lớn, có tính quốc tế như Liên hoan phim châu Á - Thái Bình Dương, Tuần phim châu Âu, Festival Huế, Tuần lễ văn hóa Nga ở Việt Nam, Triển lãm văn hóa - nghệ thuật ASEAN, các trại điêu khắc quốc tế,... Đây là một bưóc phát triển mới, mở ra triển vọng lớn để Việt Nam trở thành một địa chỉ văn hóa quen thuộc của sự giao lưu văn hóa giữa các nước trong khu vực và quốc tế.

Nhiều văn bản hợp tác quốc tế về văn hóa với các nước và với các tổ chức quốc tế được ký kết và triển khai thực hiện.

Đẩy mạnh giao lưu nhân dân, sử dụng các công cụ văn hóa và thông tin đối ngoại trong quan hệ quốc tế...

Đẩy mạnh giao lưu nhân dân, sử dụng các công cụ văn hóa và thông tin đối ngoại trong quan hệ quốc tế... Ảnh: TCCS


 

Chúng ta cũng đã tạo được ngày càng nhiều các sản phẩm thông tin đối ngoại để giới thiệu có sức thuyết phục về diện mạo đổi mới, những thành tựu của Việt Nam với nhân dân các nước, với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và với người nước ngoài ở Việt Nam. Sự phối hợp giữa văn hóa với du lịch, hàng không, thương mại trong các hoạt động ở nước ngoài, cả kinh tế, văn hóa, du lịch, thông tin..., là một dấu hiệu mới, có tác dụng tốt, tạo nên sức mạnh chung và qua đó, góp phần tăng cường hợp tác đầu tư kinh tế, thương mại.

Tuy vậy, nhiệm vụ mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa vẫn còn một số mặt yếu kém, bất cập. So với yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập và giao lưu quốc tế, công tác này chưa đáp ứng được đầy đủ và chưa phát huy mạnh mẽ tiềm năng văn hóa von có của dan tộc. Số công trình, tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị của ta được giới thiệu ra quốc tế còn quá ít, trong khi đó sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, không phù hợp với văn hóa và đặc tính con người Việt Nam của nước ngoài lại xâm nhập nước ta khá lớn. Trong giao lưu và hợp tác văn hóa, còn có biểu hiện thiếu chủ động, nhiều sơ hở trong quản lý. Hoạt động giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết về đất nước, về văn hóa Việt Nam chưa đạt yêu cầu và sự mong đợi của đồng bào.

4. Do sức sống nội tại và bản lĩnh của văn hóa Việt Nam, do đã từng trải nghiệm qua một quá trình lịch sử lâu dài biết sàng lọc và tiếp thu các giá trị văn hóa từ bên ngoài vào Việt Nam, và do đường lối chỉ đạo phù hợp với quy luật, nên từ những năm đổi mới, cùng với quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa quốc tế, nền văn hóa đương đại Việt Nam đã trở nên phong phú, đa dạng và hiện đại hơn. Một số giá trị văn hóa truyền thống được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp hơn với thời đại và với sự phát triển đang vươn lên hiện đại hóa của dân tộc ta.

Tuy vậy, từ kinh nghiệm lịch sử và từ thực tiễn những năm gần đây, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến tác động tiêu cực của xu hướng toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa.

Toàn cầu hóa kinh tế, thông qua hợp tác quốc tế, chuyển giao cống nghệ và các quá trình kinh doanh, quản lý, tổ chức, thông qua tài trợ và đầu tư, thương mại..., một vài thế lực đã và đang có mưu đồ sâu xa, thực hiện sự tấn công vào chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức và tâm lý,... của đất nước ta.

Xuất hiện sự áp đặt vô hình một số giá trị văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa Việt Nam. Xuất hiện và len lỏi phát triển vào văn hóa dân tộc những “giá trị” văn hóa theo khuynh hướng xã hội công nghiệp hiện đại và mặt trái của kinh tế thị trường như chủ nghĩa thực dụng kinh tế, lối sống tiêu thụ, hưởng thụ, khát vọng tiền tài, tư tưởng kỹ trị và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, sự sùng ngoại và đua đòi những lối sống và thị hiếu thấp kém, xa lạ, không phù hợp với dân tộc, những tệ nạn xã hội nguy hiểm như ma tuý, mại dâm,...Thực tiễn đó cho chúng ta rút ra một bài học, một kinh nghiệm quan trọng rằng, không thể xem thường những tác động tiêu cực của sự tấn công, sự “áp đặt” văn hóa đó.

Thời gian qua, ở nước ta đã diễn ra không ít sự đảo lộn các giá trị văn hóa, trong đó các giá trị văn hóa tốt đẹp, truyền thống như trọng tình nghĩa, ưu tiên về mặt đạo đức, vị tha, trung thực,... bị lấn lướt, xâm hại, sự lên ngôi của những giá trị ngoại lai, xa lạ trong một bộ phận quần chúng, sự lộn xộn, lúng túng, bị động, không bình yên trong đời sống tinh thần, trong lối sống và thị hiếu, trong đạo đức, đặc biệt những biến động phức tạp của các lĩnh vực tâm linh, tôn giáo,...

Toàn cầu hóa như một cơn lốc mạnh. Mặc dầu đã có sự chuẩn bị, song chúng ta chưa lường hết được tác động phức tạp của quá trình đó, vì vậy, văn hóa của chúng ta đang chịu những sức ép, sự va đập mạnh và sâu, đang đứng trước những thử thách gay gắt chưa từng có.

 

Tỉnh táo nhận thức thực trạng và thách thức đó, có chiến lược và giải pháp hữu hiệu để vượt qua nó, đứng vững và phát triển, đó là công việc to lớn của toàn Đảng, toàn dân ta đối với nhiệm vụ xây dựng ríên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

 

Nhận thức sâu sắc đặc điểm, thách thức và quy luật đó của quá trình toàn cầu hóa, cần phải khẳng định rằng, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa, trước những thách thức và tác động phức tạp của mặt trái toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa, chúng ta sẵn sàng và chủ động mở cửa, hội nhập, hòa mình vào xu thế chung của thế giới hiện đại, đồng thời đứng vững trên những nguyên tắc quan trọng, làm cơ sở cho việc tranh thủ thời cơ, vượt qua trở ngại, thách thức và tự lực, chủ động xây dựng văn hóa dân tộc bằng sức mạnh, bản lĩnh, cốt cách của chính dân tộc ta.

Mở cửa, hội nhập, giao lưu và hợp tác nhằm tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý, bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam. Ở đây, trong văn hóa dân tộc thể hiện phép biện chứng giữa sức mạnh nội sinh và năng lực tiếp nhận, đón nhận, hay nói cách khác, phụ thuộc vào chính bản lĩnh, sức mạnh của dân tộc ta trong tiến trình hội nhập và giao lưu quốc tế. "Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác".

Cần phải tiếp tục khẳng định đây là nguyên tắc, đồng thời là bản lĩnh của dân tộc ta trong quá trình thực hiện giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế. Ở đây, hội nhập và giao lưu để vừa bảo vệ, làm bền vững hơn các bản sắc văn hóa, vừa làm phong phú hơn, giàu có hơn, hiện đại hơn bản sắc đó và toàn bộ nền văn hóa của chúng ta.

Để có thể tiếp thu những thành tựu, tinh hoa, các giá trị văn hóa của bên ngoài mà vẫn giữ được chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc, làm đậm đà hơn cốt cách, tâm hồn dân tộc trong quá trình, giao lưu, tiếp nhận, kinh nghiệm lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam đã chỉ ra rằng, các yếu tố nội sinh về văn hóa của chúng ta phải giữ vai trò quyết định. Nội lực của chúng ta càng mạnh, chúng ta càng có nhiều cơ hội và khả năng để tiếp nhận, chọn lọc và hợp tác, có nghĩa là nội lực đó sẽ chỉ phối các quan hệ với các yếu tố ngoại sinh, quyết định chọn lọc và tiếp nhận các yếu tố đó, đồng thời có đủ trình độ, bản lĩnh để "đồng hoá" các yếu tố đến từ bên ngoài trở thành nhân tố của chính nền văn hóa dân tộc, thành chất xúc tác cho sự phát triển hiện đại hơn nền văn hóa đó.

Như vậy, hội nhập và giao lưu văn hóa không phải là phép cộng các yếu tố văn hóa bên trong và các yếu tố văn hóa bên ngoài, mà phải là quá trình tích hợp biện chứng, sinh động, nhuần nhuyễn để tạo ra một nền văn hóa thuần Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì: Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần “thuần tuý Việt Nam”.

Bản chất thực sự tốt đẹp của giao lưu văn hóa quốc tế, giữa các nền văn hóa với nhau thể hiện ở sự đối thoại bình đẳng và rộng mở. Thế giới đã gặp phải nhiều loại xung đột khác nhau: quyết liệt, dai dẳng, mất và còn, phải đương đầu với nhiều xung đột mới gay gắt hơn, tàn nhẫn hơn, đau đớn hơn do các thế lực hiếu chiến, cường quyền gây ra. Song, như UNESCO đã khẳng định về bản chất giữa các nền văn hóa không có xung đột mà chỉ có đối thoại mà thôi. Toàn cầu hóa góp phần làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, làm phong phú thêm các nền văn hóa. Chính sự đối thoại cởi mở và bình đẳng là nguồn lực tạo ra sự phong phú và tính độc đáo của mỗi nền văn hóa. Nhận thức sâu sắc và vận dụng một cách chủ động tính quy luật đặc thù đó của hội nhập và giao lưu văn hóa, chúng ta cần kiên trì xác định nguyên tắc hợp tác bình đẳng, đối thoại cởi mở để vừa cho và vừa nhận văn hóa. Nguyên tắc này không phải là kết quả chủ quan của người lãnh đạo văn hóa, mà về bản chất, là việc đúc kết từ bản thân quy luật đặc thù của sự tồn tại và phát triển văn hóa nước ta, như các Nghị quyết của Đảng đã xác định văn hóa Việt Nam là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để “không ngừng hoàn thiện mình”.

Trên cơ sở nguyên tắc đó, chúng ta hoàn toàn không chấp nhận một mưu đồ lợi dụng toàn cầu hòa để áp đặt những giá trị của các nước lớn, của các thế lực cường quyền vào nước ta. Đồng thời, trong quá trình hợp tác và giao lưu, chúng ta chủ trương loại bỏ những yếu tố văn hóa ngoại lai, không phù hợp và trái với văn hóa dân tộc, với khát vọng vì sự phát triển của con người Việt Nam thời kỳ hiện đại, từ đó, chúng ta kiên quyết "ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy" từ bên ngoài vào nước ta.

Ở đây, tư cách chủ động hội nhập và giao lưu văn hóa là một đòi hỏi cao đối với quá trình chỉ đạo hợp tác quốc tế về văn hóa, và đó là một cuộc đấu tranh không hề đơn giản để một mặt, chống lại sự áp đặt văn hóa của các thế lực cường quyền, và mặt khác, phê phán và khắc phục căn bệnh tự ti, bắt chước, lai căng, hoa mắt trước một số sản phẩm văn hóa của nước ngoài.

Những định hướng và yêu cầu trên là cơ sở để chúng ta thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, thực hiện nhiệm vụ hợp tác và giao lưu văn hóa trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa.

mọi người ơi giúp mình với :)))) Câu 1: Vì sao phải giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ? Bản thân em đã làm gì để giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ?Câu 2Thế nào là đoàn kết ,tương trợ? Vì sao phải đoàn kết tương trợ?    Câu 3 Tại sao trong cuộc sống chúng ta phải có lòng khoan dung? Em đã rèn luyện lòng khoan dung như thế nào?BT Tình huống:Bố mẹ M đều học hành cao, bố là...
Đọc tiếp

mọi người ơi giúp mình với :)))) 

Câu 1: Vì sao phải giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ? Bản thân em đã làm gì để giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ?

Câu 2Thế nào là đoàn kết ,tương trợ? Vì sao phải đoàn kết tương trợ?   

 

Câu 3 Tại sao trong cuộc sống chúng ta phải có lòng khoan dung? Em đã rèn luyện lòng khoan dung như thế nào?

BT Tình huống:

Bố mẹ M đều học hành cao, bố là tiến sĩ, mẹ là thạc sĩ, đều giữ chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước. Điều kiện kinh tế gia đình M rất khá giả. M rất hãnh diện với các bạn và cho rằng mình chẳng cần học hành nhiều cho vất vả mà vẫn có cuộc sống đàng hoàng, vì đã có bố mẹ lo cho mình.

a. Suy nghĩ của M có thể hiện biết giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ không? Vì sao?

b. Nếu là bạn của M, em sẽ góp ý với M như thế nào?

 

3
12 tháng 12 2021

Tham khảo

Vì giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình , dòng học giúp ta có thêm kinh nghiệm , sức mạnh trong cuộc sống , góp phần làm phong phú truyền thống , bản sắc dân tộc Việt Nam.

Để giữ gìn  và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ, em đã :

Quảng bá với bạn bè và mọi người về mảnh đất của mìnhGiới thiệu về nghề truyền thống của gia đình và dòng họLuôn tự hào về quê hương của mình dù đi đến tận nơi đâu

- Đoàn kết, tương trợ là sự thông cảm, chia sẻ và có việc làm cụ thể giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn.

Vì trong cuộc sống, học tập, lao động, vui chơi giải trí…, con người luôn có các mối quan hệ với nhau. Đoàn kết, tương trợ là sự liên kết, đùm bọc lẫn nhau, giúp đỡ nhau, tạo nên sức mạnh lớn hơn để hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người và làm nên sự nghiệp chung.

Lòng khoan dung giúp con người mắc lỗi nhận ra lỗi lầm và sửa chữa. Lòng khoan dung giúp mối quan hệ giữa người với người thêm tốt đẹp cuộc sống càng có ý nghĩa hơn. Khoan dung chính là thước đo phẩm chất của mỗi người. Nhờ có lòng khoan dung, cuộc sống và quan hệ giữa mọi ngời trở nên lành mạnh, thân ái, dễ chịu.

- Bản thân em đã làm:

+ Sống cởi mở, gần gũi với mọi người

+ Cư xử một cách chân thành, rộng lượng.

+ Tôn trọng và chấp nhận cá tính, sở thích, thói quen của người khác trên cơ sở những chuẩn mực xã hội.

 

 

 

12 tháng 12 2021

Tham khảo:

Câu 1:

Vì giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình , dòng học giúp ta có thêm kinh nghiệm , sức mạnh trong cuộc sống , góp phần làm phong phú truyền thống , bản sắc dân tộc Việt Nam

 

Bản thân em đã:

+ Quảng bá với bạn bè và mọi người về mảnh đất của mình.

+ Giới thiệu về nghề truyền thống của gia đình và dòng họ.

+ Luôn tự hào về quê hương của mình dù đi đến tận nơi đâu.

Câu 2:

Đoàn kết tương trợ là:

Tinh thần đoàn kết vốn là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Tinh thần ấy thể hiện qua sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động cụ thể. Nhất là những khi gặp hoạn nạn, khó khăn. Tương trợ là sự thông cảm chia sẻ và có việc làm cụ thể giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn.

 

Vì sao phải đoàn kết tương trợ?

Vì trong cuộc sống, học tập, lao động, vui chơi giải trí…, con người luôn có các mối quan hệ với nhau. Đoàn kết, tương trợ là sự liên kết, đùm bọc lẫn nhau, giúp đỡ nhau, tạo nên sức mạnh lớn hơn để hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người và làm nên sự nghiệp chung.

 

Câu 3: 

Lòng khoan dung giúp con người mắc lỗi nhận ra lỗi lầm và sửa chữa. Lòng khoan dung giúp mối quan hệ giữa người với người thêm tốt đẹp cuộc sống càng có ý nghĩa hơn. Khoan dung chính là thước đo phẩm chất của mỗi người. Nhờ có lòng khoan dung, cuộc sống và quan hệ giữa mọi ngời trở nên lành mạnh, thân ái, dễ chịu.

 

Em đã rèn luyện:

Sống cởi mở, gần gũi với mọi người

Cư xử chân thành, rộng lượng

Tôn trọng, chấp nhận cá tính, sở thích, thói quen của người khác

Không nên vội vàng kiên định khi nhận xét người khác.

Cần biết chấp nhận và tha thứ cho người khác.

Cần khoan dung đối với mọi người.

 

Tình huống.

a) Suy nghĩ của M chưa thể hiện biết giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ.Vì M dựa dẫm vào bố mẹ có chức vụ cao nên không cần phải học hành.

b) Nếu em là bạn của M,em sẽ khuyên bạn nên chăm chỉ học hành để giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình,dòng họ.

mọi người ơi giúp mình với :)))) Câu 1: Vì sao phải giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ? Bản thân em đã làm gì để giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ?Câu 2Thế nào là đoàn kết ,tương trợ? Vì sao phải đoàn kết tương trợ?    Câu 3 Tại sao trong cuộc sống chúng ta phải có lòng khoan dung? Em đã rèn luyện lòng khoan dung như thế nào?BT Tình huống:Bố mẹ M đều học hành cao, bố là...
Đọc tiếp

mọi người ơi giúp mình với :)))) 

Câu 1: Vì sao phải giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ? Bản thân em đã làm gì để giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình, dòng họ?

Câu 2Thế nào là đoàn kết ,tương trợ? Vì sao phải đoàn kết tương trợ?   

 

Câu 3 Tại sao trong cuộc sống chúng ta phải có lòng khoan dung? Em đã rèn luyện lòng khoan dung như thế nào?

BT Tình huống:

Bố mẹ M đều học hành cao, bố là tiến sĩ, mẹ là thạc sĩ, đều giữ chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước. Điều kiện kinh tế gia đình M rất khá giả. M rất hãnh diện với các bạn và cho rằng mình chẳng cần học hành nhiều cho vất vả mà vẫn có cuộc sống đàng hoàng, vì đã có bố mẹ lo cho mình.

a. Suy nghĩ của M có thể hiện biết giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ không? Vì sao?

b. Nếu là bạn của M, em sẽ góp ý với M như thế nào?

1
12 tháng 12 2021

TK

Theo em, học sinh có thể làm gì để góp phần giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ? - Giáo dục Công dân Lớp 7 -
23 tháng 4 2022

Tham khảo:

Câu 1:

-Để khuyến khích học tập và tuyển chọn nhân tài, nhà Lê có biện pháp:

+Dựng lại Quốc Tử Giám

+mở Trường học

+mở khoa thi

+Tất cả người dân có học đều được đi thi

+nội dung học tập, thi cử là các sách của đạo nho

+đã đặt ra lễ xướng danh(lễ đọc tên người đỗ), lễ vinh quy (lễ đón rước người đỗ cao về làng) và khắc tên tuổi những người đỗ cao (tiến sĩ) vào bia đá dựng ở Văn Miếu để tôn vinh.

Câu 2:

Giáo dục thi cử dưới thời Lê Sơ:

- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên. 

- Cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.

- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.

Giáo dục và thi cử phát triển là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước. Qua đó, trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng.

Câu 3:

 *Giáo dục khoa cử thời Lê đã để lại cho dân tộc ta truyền thống tốt đẹp là:

-Thông qua việc dạy con người học trong sách vở, học qua sự trao truyền giữa các thế hệ, học ở đời kết hợp với việc học qua thầy, qua bạn mà nền giáo dục khoa cử thời Lê sơ đã hướng con người đến chữ nhân, đưa con người về chữ hiếu, dẫn con người đến chữ trung, khuyên con người về chữ nghĩa, đó là những giá trị hằng xuyên và bất biến của bất kỳ xã hội nào.
-Chẳng những thế, nền giáo dục đó đã dạy và rèn luyện con người sống một cách hướng thiện, chính trực, thẳng thắn, công minh, thanh cao, trong sạch dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Vượt qua chiều rộng của không gian, chiều sâu của thời gian, tinh thần nhân văn và nhân đạo trong nền giáo dục đã trở thành sức mạnh vô song để củng cố lòng tin, điều chỉnh hành vi của con người, cung cấp cho họ những chuẩn mực để rèn luyện ý chí, nghị lực hình thành thái độ trước cuộc đời, thể hiện sự yêu - ghét và khí phách, cốt cách của những con người có tri thức, có khả năng nhận thức được chân lý.

 *Em phải :

-Để phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta, những học sinh như em - những người còn ngồi trên ghế nhà trường, ngày càng phấn đấu hơn nữa học tập, đạt kết quả cao,không phụ lòng mong mỏi của thầy cô giáo, bố mẹ. Hơn nữa, còn phải phát  triển toàn diện, tham gia các hoạt động tập thể tích cực, nâng cao kỹ năng mềm, hoàn thiện bản thân. 

Câu 4:

- Nguyên nhân thắng lợi:

 + Nhờ ý chí đấu tranh chống áp bức bóc lột, tinh thần yêu nước, đoàn kết và hi sinh cao cả của nhân dân ta.

 + Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của vua Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân.

- Ý nghĩa lịch sử:

 + Đã lật đổ thành công chính quyền phong kiến thối nát Nguyễn - Trịnh - Lê 

 + Đã xoá bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng cho việc thống nhất quốc gia.

 + Giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, đập tan tham vọng xâm lược nước ta của nhà Thanh và quân Xiêm.

Câu 5

Phong trào Tây Sơn có cống hiến to lớn đối với lịch sử dân tộc

- Lật đổ chính quyền Nguyễn, Trịnh, Lê, xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng thống nhất quốc gia.

- Đánh tan quân xâm lược Xiêm, Thanh, bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

-Mở ra thời kì vàng son trong lịch sử nước ta, cuộc sống của người dân ấm no sung sướng, có nhiều quyền lợi và đất

Theo mình đóng góp nào cũng quan trọng bởi sau tất cả những khốn khổ mà nhân dân phải chịu thì việc lật đổ chính quyền trong nước, bảo vệ đất nước trước kẻ thù xâm lăng mở ra thời kì tươi sáng mới cho dân tộc chính là mục đích mà phong trào Tây Sơn nói đến, là đóng góp quan trọng có ý nghĩa trọng đại đối với vận mệnh cả một dân tộc

Câu 5:

* Chính trị nước ta dưới thời Nguyễn là :

- Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lập ra triều Nguyễn.

- Năm 1815, ban hành bộ luật Hoàng triều luật lệ (luật Gia Long).

- Chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc (Thừa Thiên).

- Xây dựng quân đội gồm nhiều binh chủng, ở kinh đô và các trấn, tỉnh đều xây dựng thành trì vững chắc. 

* Kinh tế nước ta dưới thời Nguyễn là:

a) Nông nghiệp:

- Công cuộc khai hoang: Được đẩy mạnh nhưng ruộng đất hoang hóa vẫn còn nhiều.

- Chính sách quân điền: Được đặt lại nhưng tổng diện tích ruộng đất công còn quá ít. Nông dân vẫn không có (hoặc thiếu) ruộng đất để cày cấy.

- Đê điều: Tuy được sửa đắp nhưng vỡ đê, lụt lội vẫn thường xuyên xảy ra khiến làng xóm tiêu điều, mùa màng bị tàn phá.

b) Thủ công nghiệp: phát triển.

+ Nhà Nguyễn lập nhiều xưởng đúc tiền, đúc súng, đóng tàu, khai mỏ...

+ Thủ công nghiệp nhà nước phát triến mạnh và có nhiều thành tựu lớn.

Đặc biệt là việc đóng thành công chiếc tàu thủy chạy bằng máy bơm nước theo kiểu phương Tây.

+ Thủ công nghiệp nhân dân tiếp tục phát triến nhưng bị đánh thuế nặng.

c) Thương nghiệp:

 + Đất nước thống nhất thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán. Các đô thị, thị tứ phồn thịnh.

 + Thuyền buôn nước ngoài thường xuyên đến buôn bán và nhà nước cũng trao đổi hàng hóa với họ như là Xiêm, Mã Lai, Trung Quốc,... 

 + Đặc biệt là có cả các thuyền buôn phương Tây được đến buôn bán ở một số hải cảng nhất định theo quy định của triều Nguyễn.


 

23 tháng 4 2022

Cảm ơn bạn nha

 

LM
Lê Minh Hiếu
Giáo viên
4 tháng 7 2021

Các ý kiến đúng: A, C.

Các ý kiến không chính xác: B, D.

4 tháng 7 2021

Theo em, em đồng ý với các quan điểm là : A và C, và không đồng ý quan điểm B và D.

28 tháng 12 2020

Giup ta co them kinh nghiem va suc manh trong cuoc song, gop phan lam phong phu truyen thong, ban sac dan toc