K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

28 tháng 11 2022

Kinh tế TBCN phát triển cùng các cuộc phát kiến địa lí trong các thế kỷ XV – XVI đã dẫn đến kỷ nguyên thương mại quốc tế sau đó. Các nước phương Tây đẩy mạnh việc giao lưu quốc tế vs các nước phương Đông. Hai trục giao thương buôn bán lớn ở biển Đông được hình thành đó là trục Bắc – Nam và Đông – Tây. Trong nước, về chính trị thời kỳ này đất nước ta chia cắt thành 2 Đàng. Trong các tk XVI – XVIII, nền kt hàng hóa phát triển, có những chuyển biến to lớn. Chính trong bối cảnh đó, hoạt động trong các đô thị đã ra đời,bên cạnh các đô thị cũ còn xuất hiện nhiều đô thị mới.
Đô thị lớn nhất và cũng là kinh đô của cả nước là Thăng Long – Kẻ Chợ. Đây là một đô thị ra đời từ tk 11. Trong các tk XVI – XVIII mạng lưới chợ ở đâyphát triển mạnh mẽ và là nơi đô hội, tụ tập đông người, có nhiều phố xá nên mật độ các chợ ở đây dày đặc hơn ở nơi khác. Có thể hình dug Thăng Long – Kẻ Chợ theo mô tả của giáo sĩ phương Tây: giáo sĩ Xanh Phanlo “kinh đô của nó, tôi xem có thể lớn bằng Pari và dân số cũng bằng”, giáo sĩ Marini “ Các nhà ở Kẻ Chợ đều 1 tầng…có 62 khu phố mà mỗi khu rộng bằng 1 thành phố nhỏ của nước Ý”.
ở Kẻ Chợ ngoài người Hoa còn có các thương nhân phương Tây đến buôn bán và xin lập thương điếm. Thăng Long – Kẻ Chợ là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước, vì vậy TL vẫn chịu sự rang buộc của phần đô, còn phần thị ko phát triển bằng vì nhà nước nắm độc quyền ngoại thương.
Bên cạnh đó còn có Phố Hiến (Hưng Yên). Đây là 1 đô thị mới phát triển trong thời kì này. Tên gọi Phố Hiến thể hiện rõ nét yếu tố đô chi phối yếu tố thị. Đây là thủ phủ trấn Sơn Nam, Phố Hiến nằm ở phía tả s.Hồng, nơi đây có lỵ sở của Tuy Hiến sát sứ ty(cơ quan chính trị của nhà nước). Về sau vs sự phát triển của mình phố Hiến dần dần mag 1 diện mạo của 1 đô thị kinh tế. Kết cấu của nó bao goomd 1 bến cảng sông, 1 tập hợp chợ, khu phường phố, và 2 thương điếm Hà La, Anh. Phố Hiến từ nơi tụ cư, thị trấn phát triển thành 1 đô thị lớn vào tk 17 đã luôn mang tính nổi trội đậm sắc thái kinh tế. Lúc đầu các hoạt động buôn bán thông qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn chủ yếu, đặc biệt là ngoại thương do lợi thế là 1 bến sông, đầu mối của các tuyến gt vùng. Thời kì phồn thịnh nhất của phố Hiến là vào khoàng tk 17. Sau đó là quá trình suy thoái, diễn ra trong gần 2 tk để cuối cùng trở thành tỉnh lỵ Hưng Yên. Do dòng sông bị bồi lấp, cạn dần nên tàu thuyền vào khó khăn, mặt khác lúc này tình hình chính trị khu vực và hệ thống kinh tế thương mại biển Đông cũng đã có những chuyển biến. Trung Quốc bãi bỏ lệnh hải cấm, Nhật Bản cũng chuyển sang chiến lược xk vàng bạc, tơ lụa. Các tuyến buôn bán đường biển trực tiếp trở nên thông thoáng hơn. Thế kỷ XIX khi kinh đô chuyển vào Huế , phố Hiến lụi tàn dần.
Thanh Hà: nằm ở tả ngạ sông Hương do người TQ thành lập vào năm 1636 khi được phép của chúa Ng. Thanh Hà là khu buôn bán của Phú Xuân được gọi là “Đại Minh khách phố” , vs hoạt động buôn bán sầm uất. Tuy nhiên do cồn nổi ở s.Hương tàu thuyền không cập bến được . Sau đó, Thanh Hà cũng lụi tàn dần.

28 tháng 11 2022

Thăng Long (chữ Hán: 昇龍) là kinh đô của nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng (1010 - 1788). Trong dân gian thì địa danh tên Nôm là “Kẻ Chợ” được dùng phổ biến nên thư tịch phương Tây hay dùng “Cachao” hay “Kecho” để gọi về Thăng Long - Hà Nội trước thế kỷ 19.
Thủ đô Hà Nội đã hơn nghìn năm tuổi, 1010 năm là quãng thời gian dài đằng đẵng cùng bao thăng trầm của lịch sử. Thật khó có thể có được một bức tranh tổng quát và hoàn mỹ về diện mạo kiến trúc cho hơn 10 thế kỷ qua. Bởi thiên tai, chiến tranh, thời gian đã vùi lấp quá nhiều. Song, những gì còn lại, dẫu ít ỏi và thậm chí đang mai một cũng có thể coi như một phác họa cơ bản nhất của di sản kiến trúc nghìn năm… để vẫn thấy nơi đây luôn tỏa sáng “một Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội linh thiêng hào hoa”.
Kỷ niệm 1010 năm Thăng Long - Hà Nội, thủ đô ngàn năm yêu dấu tiếp tục khẳng định những phẩm chất cao quý và truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Văn hiến - Anh hùng - Hòa bình - Hữu nghị - Sáng tạo.
Chuyên đề trực tuyến “Thăng Long - Hà Nội linh thiêng hào hoa” sẽ giới thiệu một phần di sản kiến trúc về kinh thành xưa qua các hiện vật tiêu biểu mà Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh lưu giữ.

12 tháng 11 2021

Câu 3 :

-Thăng Long tứ trấn là khái niệm xuất hiện trong dân gian để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long, hoặc bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long.

Đông trấn: "Bạch Mã tối linh từ" (đền Bạch Mã) (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ - thành hoàng Hà Nội. Đền được xây dựng từ thế kỷ 9Tây Trấn: "Tây Trấn từ" (đền Voi Phục), (hiện nằm trong Công viên Thủ Lệ) thờ Linh Lang - một hoàng tử thời nhà Lý. Đền được xây dựng từ thế kỷ 11Nam trấn: "Kim Liên từ" (đền Kim Liên), trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ Cao Sơn Đại Vương. Đền được xây dựng từ thế kỷ 17Bắc trấn: "Trấn Vũ quán" (đền Quán Thánh), (cuối đường Thanh Niên), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền được xây dựng từ thế kỷ 10
12 tháng 11 2021

tham khảo !

1.

Có thể nói kiến trúc hoàng cung Thăng Long là một đỉnh cao của sự tiến bộ của kiến trúc đương thời lúc bấy giờ. Không chỉ có diện tích và quy mô to lớn, kiến trúc và trang trí nội thất bên trong còn rất nguy nga và tráng lệ thể hiện được sự quyền quý của quý tộc. Sách sử xưa có viết về cung điện Thăng Long được chạm trổ hết sức khéo léo, là công trình được thi công xây dựng tỉ mỉ từ trước đến nay chưa từng có. Bên trong cung điện đều sơn son, cột điện thì vẽ các hình long, hạc, tiên nữ qua đó bạn có thể hình dung vẻ đẹp quy nga và tráng lệ của cung Thăng Long lúc bấy giờ.

2.

Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370). Ông đỗ Hoàng giáp năm 1304. Nguyễn Trung Ngạn thuở nhỏ tên là Cốt, tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Khi còn bé, Nguyễn Trung Ngạn được dân trong vùng nể phục, gọi là “thần đồng”. Ông không chỉ là vị quan giỏi việc nội chính mà còn là nhà ngoại giao xuất sắc.

-Trần Thì Kiến (1260 - 1330) người huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh). Khi làm quan triều Trần, ông là pháp quan liêm chính, giỏi lý số

 

3.là Đền Bạch Mã, đền Voi Phục, đền Kim Liên và đền Quán Thánh. Đây  4 ngôi đền thiêng được dựng lên để thờ 4 vị thần trấn giữ những vị trí huyết mạch của mảnh đất Thăng Long.

24 tháng 10 2019

Khi nhà Đinh, nhà Tiền Lê làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình (củng cố độc lập dân tộc, khôi phục thống nhất quốc gia) thì Hoa Lư cũng vừa xong sứ mệnh lịch sử của một Thủ đô thời kỳ đầu khi đất nước giành lại độc lập. Độc lập tổ quốc đã được thử thách và vững vàng hơn. Những tiền đề cần thiết cho bước nhảy vọt về kinh tế, phát triển huy hoàng về văn hoá đã được chuẩn bị qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc. Với nhãn quan chính trị xuất sắc của mình, nhà vua đã nhận ra vị thế đắc địa của thành Đại La. Mùa thu tháng bảy năm Canh Tuất (1010), vua đầu triều Lý quyết định dời đô. Mùa nước rẫy, thuyền ngự với chiến thuyền và văn võ bá quan hộ tống từ Hoa Lư ngược dòng cập bến Đại La. Tại vùng đất mới, nhà vua đổi tên là thành Thăng Long. Kinh thành mới đại thể được giới hạn bằng 3 con sông. Phía Đông là sông Hồng, phía Bắc và phía Tây là sông Tô, phía Nam là sông Kim Ngưu và chia làm hai phần: Hoàng thành và kinh thành. Hoàng thành nằm trong lòng Kinh thành, vị trí gần Hồ Tây, nơi có các cung điện hoàng gia, đồng thời là nơi thiết triều. Trong Hoàng thành còn ngăn ra một khu vực nữa gọi là Cấm thành. Đây là nơi ở của hoàng gia, gọi là Long thành. Những cung điện chính còn ghi chép trong sử sách như: Điện Kiền Nguyên là điện chính, nơi vua làm việc, hai bên tả hữu là điện Tập Hiền và Giảng Vũ. Bên trái mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân; bên phái mở cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn; chính Bắc dựng điện Cao Minh, đằng sau dựng điện Long An và Long Thuỵ để vua nghỉ ngơi, tiếp sau là cung Thuý Hoa và các cung khác để các phi tần ở,v.v...    Gốm thời LÝ Năm 1029 vua Lý Thái Tôn cho xây dựng lại Cấm thành. Trên nền cũ của điện Kiền Nguyên dựng điện Thiên An làm chính, hai bên tả hữu là điện Tuyên Đức và Diên Phúc. Đằng trước Thiên An là sân rồng, hai bên tả hữu sân rồng dựng gác chuông, xung quanh bốn bề đều dựng hành lang và dải vũ. Chếch về phía Đông là điện Văn Minh và điện Quảng vũ. Phía trước sân rồng là điện Phụng Tiên, trên điện có lầu Chính Dương nơi đặt đồng hồ và báo canh. Đằng sau điện Thiên An là điện Thiên Khánh hình bát giác, nối liền Thiên Khánh với điện Trường Xuân phía sau là các cầu Phượng Hoàng, trên điện Trường Xuân có gác Long Đồ. Năm 1203 lại thêm đợt xây dựng mới. Vua Lý Cao Tôn cho dựng thêm cung điện ở phía Tây tẩm điện: Chính giữa đặt điện Thiên Thuỵ, bên trái dựng điện Dương Minh, bên phải dựng điện Thiềm Quang, đằng trước xây điện Chính Nghi, phía trên dựng điện Kính Thiên. Chính giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Vệt Thành, thềm gọi là Ngân Hồng. Đằng sau mở điện Thắng Thọ, trên có dựng gác. Bên trái xây gác Nhật Kim, bên phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh đều dựng nhà hành lang. Phía trái gác Nguyệt Bảo dựng toà Lương Thạch, phía Tây gác xây Dục Đường (nhà tắm). Ngoài ra còn rất nhiều công trình khác như gác Phú Quốc, thềm Phượng Tiêu, cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư, đình Ngoạn Y. Tất cả các công trình này đều có trồng hoa thơm cỏ lạ, “cách chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ xưa chưa từng có vậy”(việt sử lược .t .14). Bao bọc các cung điện là một bức tường thành bảo vệ gọi là Long Thành với 10 vệ cấm quân ngày đêm canh gác.    Tượng Phật Ngoài các cung điện, nhà Lý còn xây dựng khá nhiều các đền miếu, chùa tháp, hồ, vườn cảnh để phục vụ cho nhu cầu du ngoạn và tâm linh của hoàng tộc như chùa Vạn Tuế, chùa Hưng Thiên Ngự, chùa Chân Giáo, đền Quán Thánh và hàng loạt lầu các, đài tạ rất đẹp như: đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói vàng, tầng dưới lợp ngói bạc; hồ Kim Minh vạn tuế có cầu Vũ Phượng đi vào núi đá giữa hồ; hồ Thuỵ Thanh, ứng Minh(đào 1051); hồ Phượng Liên (đào 1098), cạnh hồ dựng điện Sùng Uyên, điện Huy Dương, đình Lai Phượng, điện ánh Thiềm, đình át Vân cùng lầu Trường Minh, phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa. Nhiều vườn ngự cũng được mở trongkhu hoàng thành: vườn Quỳnh Lâm, Thắng cảnh, Xuân Quang, Thượng Lâm. Trong các vườn này còn đào hồ nuôi thả hải sản như đồi mồi cá biển...Tất cả các công trình kiến trúc trong hoàng thành đều xây dựng quy mô tráng lệ, từ lầu son gác tía đến các công trình văn hoá, tôn giáo hoà quyện với thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của chốn Cửu trùng.   Rồng thời Lý Khu thứ hai là khu dân sự, quan lại và binh lính ở bao bọc lấy hoàng thành, còn gọi là kinh thành. Khu này chia thành các phường nông nghiệp và thủ công nghiệp. Cả hai khu (Hoàng thành và kinh thành) được bao bọc bằng đê của ba con sông nói trên. Đời sống kinh tế tại Thăng Long thời gian này đã có nhiều thay đổi. Từ vị trí là một miền dân khang vật thịnh, nên khi trở thành Kinh Sư dân số Thăng Long ngày càng đông, hoạt động kinh tế của kinh thành ngày càng sầm uất, phồn thịnh hơn trước. Chỉ trong khoảng hơn một trăm năm sau khi trở thành kinh đô, tại Thăng Long, nhà Lý trong giai đoạn thịnh đạt đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trên quy mô lớn, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử Việt Nam. Tứ đại khí: chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh chính là được thiết kế từ thời kỳ này. Nhà Lý đã trải qua 9 đời ở kinh thành Thăng Long, đổi quốc hiệu là Đại Việt, tồn tại 215 năm

24 tháng 10 2019

Từ thời Lý, cấu trúc “tam trung thành quách” đã định hình rõ ràng. Vòng thành trong cùng bao bọc nơi ở của vua, gọi là Cấm thành, vòng thành giữa bao bọc nơi nhà vua và triều đình làm việc, bao trọn cả Cấm thành, là Hoàng thành, hay còn gọi là Long thành. Vòng thành ngoài cùng bao bọc nơi ở của quan lại, thái tử, hoàng tử, anh em họ hàng nhà vua và dân chúng, gọi là Đại La thành. Vùng đất nằm giữa Hoàng thành và Đại La thành gọi là Kinh thành.

Với chủ trương không bao bọc thái tử và hoàng tử trong bốn bức tường Hoàng thành, các vua triều Lý luôn xây dựng cung điện ở ngoài thành cho các con trai của mình. Ngoài Hoàng thành là Kinh thành với muôn mặt đời sống thường nhật của người dân diễn ra mỗi ngày. Đó là cách tốt nhất để các thái tử và hoàng tử hiểu rõ việc đời, việc người, hiểu rõ về xã hội, dân chúng mà họ sẽ trị vì sau này.

Cung điện của Thái tử được gọi là cung Long Đức. Đây là cung điện cố định nhất trong số các cung điện dành cho con trai của nhà vua. Khi một hoàng tử được lập làm thái tử thì sẽ được dọn về ở tại cung này. Khi thái tử lên ngôi vua, cung này lại được dành cho thái tử thế hệ kế tiếp. Vì thế, chủ nhân của cung Long Đức có tính luân phiên.

Bên cạnh cung Long Đức, các phủ điện của các hoàng tử, hoàng thân quốc thích, các quan lại và doanh trại quân lính cũng tập trung tại khu vực Kinh thành. Đây là những công trình kỳ vĩ nằm xen kẽ với phố phường buôn bán và nơi ở, sản xuất của nhân dân, tạo thành tổ hợp phố phường thành thị sầm uất.

Thời Lý, Kinh thành Thăng Long được chia làm 61 phường là nơi ở, làm ăn, sản xuất và buôn bán của nhân dân. Nguyên nghĩa của chữ “phường” là “ô đất vuông”. 61 phường có từ thời Lý là 61 ô đất vuông tập hợp các hộ gia đình thành một đơn vị hành chính tương đương với một xã ở nông thôn. Các phường này được giới hạn với nhau bằng đường phố. Đây là kiểu quy hoạch kinh đô đặc trưng thời Trung đại. Tuy nhiên, Kinh đô Thăng Long lại có điểm đặc sắc riêng, ấy là mỗi phường đều là nơi tập trung các thợ thủ công làm chung một nghề và thường có chung một quê. Bởi vậy, người ta thường nói về “phường thợ xây”, “phường thợ mộc” hay “phường thợ hàn”. Phường từ một đơn vị hành chính đã gắn với nghề nghiệp chủ đạo của những người dân cư trú tại phường đó. Người dân thường mở cửa hàng bán sản phẩm của phường mình ở ven các con phố chạy qua phường, hình thành nên các con phố buôn bán chủ yếu chung một mặt hàng và phố được gọi tên theo mặt hàng kinh doanh từ đó. Điều này lý giải vì sao Thăng Long – Hà Nội cổ có những con phố mang tên Hàng Đồng, Hàng Nón, Hàng Tre

Trung tâm Kinh thành Thăng Long có Thái Hồ là nơi nhà Lý dựng Văn Miếu và trường Quốc Tử Giám. Phía Nam Thái Hồ là hồ Chu Tước (sau gọi là hồ Bích Câu, sau nữa được tách thành hồ Bảy Mẫu và hồ Thuyền Quang). Năm 1154, vua Lý Anh Tông cho dựng đàn Viên Khâu cạnh hồ Chu Tước để làm lễ Tế Giao hằng năm.

Thời Lý, hồ Dâm Đàm (hồ Tây) đã tách khỏi sông Hồng, nhưng hồ Lục Thủy (hồ Gươm) và hồ Chu Tước thì vẫn ăn thông với sông Kim Ngưu và sông Tô Lịch – hai con sông uốn khúc chảy quanh trong nội thành Thăng Long. Trên đoạn sông Tô Lịch cổ chạy qua Kinh thành Thăng Long được dựng một vài cây cầu để cư dân hai bên bờ sông có thể qua lại, giao thương: cầu Đông xây bằng đá, cầu Thái Hòa dựng bằng gỗ, cầu Cau và cầu Tây Dương.

Cũng do Kinh đô Thăng Long có hệ thống sông hồ thông thoáng nên hình thành những bến thuyền (từ cổ gọi là “búa”) tấp nập thuyền bè vào ra buôn bán: bến Triều Đông (Hòe Nhai), bến Thái Cực (Hàng Đào), bến Thái Tổ (Nguyễn Du), bến Giang Tân (Nghĩa Đô), bến Thiên Thu, bến Đại Thông (hiện chưa xác định thuộc khu vực nào)… Thăng Long thời xưa chợ và bến thuyền thường song hành với nhau như thế nên mới hình thành cách gọi “chợ búa” như dân ta vẫn quen dùng cho đến nay.

Kinh thành Thăng Long

Kinh thành Thăng Long nằm ven sông Hồng (còn gọi là sông Nhị, hay Lô Giang thời Lý). Các nhà vua thời Lý cho dựng bốn cung điện ven sông này để nhà vua và tùy tùng, quan lại ra xem lễ hội đua thuyền hằng năm. Bốn cung điện đó là Hàm Quang (được xây dựng năm 1011), Linh Quang (được xây dựng năm 1058), Thủy Tinh và cung Thánh Từ (được xây dựng vào đầu thế kỷ XII). Trong đó, cung Thánh Từ cũng chính là nơi dành cho Thái Hậu ở. Các cung điện ở đây đều được xây dựng với quy mô rất lớn thành quần thể cung điện nguy nga, tráng lệ. Chẳng hạn, bên trái điện Linh Quang được dựng thêm điện Kiến Lễ, bên phải là điện Sùng Nghi, mặt tiền dựng lầu chuông một cột 6 cạnh hình hoa sen (thời Lý, Phật giáo trở nên thịnh hành và hình ảnh hoa sen được cách điệu thành những họa tiết trang trí và công trình xây dựng, làm nên những công trình lịch sử như Chùa Một Cột…)

Chùa Một Cột

Bên hồ Dâm Đàm (hồ Tây), các nhà vua triều Lý cũng cho xây nhiều cung điện làm hành cung hoặc quán quan ngự trên mặt nước để xem đánh cá, bơi thuyền. Đầu thế kỷ XIII, công chúa Từ Hoa, con gái của vua Lý Thần Tông, ở cung Từ Hoa ven hồ Dâm Đàm đã cùng các cung nữ mở nghề trồng dâu nuôi tằm. Vì thế, nơi này mới có tên là trại Tàm Tang, sau đổi thành Nghi Tàm.

Còn bên hồ Lục Thủy, nhà Lý cho dựng nhiều công trình quan trọng, như tháp Báo Thiên và chùa Báo Thiên được dựng để ghi công chiến thắng quân Chiêm Thành, cung Chiêm Nữ là nơi dành cho các cung nữ Chiêm Thành bị bắt tới ở.

Thời Lý, do đạo Phật thịnh hành nên trong Kinh thành được nhà vua cho dựng nhiều chùa chiền, trong đó có nhiều ngôi chùa nổi tiếng như chùa Vạn Tuế, chùa Diên Hựu, chùa Ngọc Hồ.

Theo thuyết phong thủy, nhà Lý cũng cho đắp nhiều núi giả để vừa được vận nước vững bền, vừa làm nơi thắng cảnh thưởng ngoạn. Có thể kể đến một vài ngọn núi nhân tạo này, như: Tam Sơn, Ngũ Nhạc, Khán Sơn, Sư Sơn. Cũng có ý kiến cho rằng, Nùng Sơn là một trong những ngọn núi nhân tạo như thế. Tuy nhiên, ý kiến này còn nhiều tranh cãi do Nùng Sơn còn được đồng nhất với núi Long Đỗ (rốn rồng) tồn tại từ trước khi nhà Lý dời đô về Thăng Long.

Bên bờ Đông sông Hồng, đối diện với Kinh thành, vua Lý Anh Tông cho dựng trạm Hoài Viễn làm nơi tiếp đón sứ giả các nước và tù trưởng các miền thiểu số tới kinh triều kiến nhà vua.

Như vậy, từ thời nhà Lý, Thăng Long đã trở thành không chỉ là trung tâm chính trị, hành chính, quân sự mà còn là trung tâm kinh tế, văn hóa lớn của cả nước, với lối quy hoạch phố phường kiểu bàn cờ mang tính khoa học 

6 tháng 3 2023

* Thăng Long:

- Ý nghĩa: Thăng Long, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, “Long” có nmghiax là “Rồng”. Được ghi trong Đại Việt sử ký, không chỉ là “Rồng bay lên”, mà còn có nghĩa “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Thăng Long - Hà Nội là Kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam.

- Lịch sử: Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy (581-618), Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội đã có tổng cộng 16 tên gọi cả tên chính quy và tên không chính quy, như: Long Đỗ, Tống Bình, Đại La, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh, Bắc Thành, Hà Nội, Tràng An, Phượng Thành, …

 

* Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô” (Toàn thư Sđd - tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”.

* Hà Nội: So với tên gọi Thăng Long với ý nghĩa chủ yếu có tính cách lịch sử (dù chỉ đưới dạng truyền thuyết: ghi lại sự kiện có rồng hiện lên khi Vua tới đất Kinh đô mới), thì tên gọi Hà Nội có tính cách địa lý, với nghĩa “bên trong sông”. Nhưng nếu xét kỹ trên bản đồ thì chỉ có Sông Nhị là địa giới Tỉnh Hà Nội cũ về phía Đông, còn Sông Hát và Sông Thanh Quyết không là địa giới, như vậy có bộ phận Tỉnh Hà Nội không nằm bên trong những con sông này. Và khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp, tên gọi lại càng không tương xứng với thực địa.

     Trung văn đại từ điển, tập 19 (Đài Bắc 1967, tr.103) cho biết Hà Nội là tên một quận được đặt từ đời Hán (202 Tr.CN - 220 S.CN) nằm phía Bắc Sông Hoàng Hà. Tên Hà Nội từng được ghi trong Sử ký của Tư Mã Thiên (hạng Vũ Kỷ), kèm lời chú giải: “Kinh đô đế vương thời xưa phần lớn ở phía Đông Sông Hoàng Hà, cho nên gọi phía Bắc Sông Hoàng Hà là Hà Ngoại”. Rất có thể Minh Mạng đã chọn tên gọi Hà Nội, một tên hết sức bình thường để thay tên gọi Thăng Long đầy gợi cảm, nhưng tên gọi mới Hà Nội này lại có thể được giải thích là “đất Kinh đô các đế vương thời xưa”, để đối phó với những điều dị nghị. Chính cách đặt tên đất “dựa theo sách cũ” đã lại được thực thi, sau này, năm 1888 Thành Hà Nội và phụ cận trở thành nhượng địa của thực dân Pháp, tỉnh lỵ Hà Nội phải chuyển tới Làng Cầu Đơ (thuộc Huyện Thanh Oai, Phủ Hoài Đức), cần có một tên tỉnh mới. Người ta đã dựa vào một câu trong sách Mạnh Tử (Lương Huệ Vương, thượng, 3) “Hà Nội mất mùa, thì đưa dân đó về Hà Đông, đưa thóc đất này về Hà Nội, Hà Đông mất mùa cũng theo phép đó”. Dựa theo câu trên, người ta đặt tên tỉnh mới là Hà Đông, tuy rằng tỉnh này nằm ở phía Tây Sông Nhị, theo thực địa phải đặt tên là Hà Tây mới đúng.

12 tháng 11 2021

 Đền Bạch Mã, đền Voi Phục, đền Kim Liên và đền Quán Thánh........

đền Kim Liên nhé 

Theo người dân sống lâu năm gần Đình Kim Liên: Sau phần lễ, các dòng họ lần lượt dâng những mâm cỗ cầu kỳ tái hiện ẩm thực của người Hà Nội. Đã từng có những mâm cỗ 7 tầng chất ngất, đẹp như một tác phẩm nghệ thuật nhưng mang đầy đủ ý nghĩa của mối giao hoà giữa con người và trời đất, có những mâm cỗ “khắc” ông Lã Vọng áo tơi nón lá ngồi câu cá bên bờ ao mà tất cả chỉ bằng xôi và gà… Để làm được mâm cỗ ấy, người ta phải cầu kỳ chuẩn bị cả tháng trời. Tiếp sau đó là lễ rước với 4 kiệu: kiệu long đình, kiệu ông, kiệu bà và kiệu võng, người dân theo địa phận của làng đi từ phố Kim Hoa đến Đào Duy Anh rồi trở về đình Kim Liên tạo nên một hình ảnh rất đẹp.

Lễ hội thu hút đông đảo người dân không chỉ khu vực gần Đình Kim Liên mà còn là nhân dân Thủ đô tới tham dự. Lễ hội còn có nhiều trò chơi truyền thống như: chọi chim, cờ người, bóng bàn, thi đấu võ thuật… Việc tổ chức những trò chơi như thế này đã góp phần quảng bá thêm về lễ hội Đình – Đền Kim Liên, cũng như bảo tồn giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc.

Với kiến trúc độc đáo và lễ hội đầy màu sắc, có thể nói, cùng với thần Bạch Mã ở đền Bạch Mã, thần Trấn Vũ ở đền Quán Thánh, thần Linh Lang ở đền Thủ Lệ đã họp thành “Thăng Long tứ trấn” – nổi tiếng của trấn phía Nam Kinh thành Thăng Long xưa.

1 tháng 11 2018

Hà Nội là một thành phố nằm giữa các con sông, giữa hai dòng sông chính là sông Hồng và sông Đáy.
Sông Hồng có tổng chiều dài là 1.149 km, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Việt Nam một đoạn dài 510 km và đổ ra biển Đông. Sông Đáy là một nhánh nằm ở hữu ngạn sông Hồng, đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Hà Nội ngày nay nằm trên vùng đất bồi tụ của ngã ba sông Hồng, sông Đuống, là vùng trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ. Nơi đây có một con sông quen thuộc là sông Tô Lịch, lấy nước từ sông Hồng đổ sang sông Nhuệ, là vị trí xây dựng thành Đại La.
Những tên gọi
\(-\) Năm 544: Lý Nam Đế đóng đô ở Vạn Xuân, dựng thành ở ven sông Tô Lịch.
\(-\) Năm 866: Cao Biền xây thành Đại La.
\(-\) Năm 1010: Lý Thái Tổ dời đô về Đại La, đặt tên là Thăng Long (昇龍)
\(-\) Năm 1397: Hồ Quý Ly đổi tên thành Đông Đô.
\(-\) Năm 1428: Lê Lợi đổi tên thành Đông Kinh.
\(-\) Năm 1802: Gia Long đổi chữ "Long” (龍) là Rồng thành chữ "Long" (隆) là Thịnh vượng.
\(-\) Năm 1831: Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội (河內)

+ Qua các thời Lý, Trần, kinh thành Thăng Long của nước Đại Việt đã trở thành nơi tập trung tinh hoa văn hoá của đất nước .
+ Cái chất Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội chính là ở những con người sống tại đó với cách sống, cách ứng xử của họ.
+ Hà Nội có nhiều di tích lịch sử văn hoá mang nhiều ý nghĩa sâu sắc: Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Đền Quán Thánh, Phủ Tây Hồ, Chùa Trấn Quốc, Chùa Một Cột…

1 tháng 11 2018

Thăng Long :

- Là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu từ thời kì tiền Thăng Long (An Nam đô hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh - Tiền Lê.

- Phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn.

- Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.

19 tháng 11 2021

thêm 09:15 làm j thế ?

19 tháng 11 2021

nhầm

 

15 tháng 5 2021

Ngược dòng lịch sử – Hà Nội thời kỳ tiền Thăng Long: Kỳ 2 “Hệ thống thành lũy”

19/05/2017 4,577 Xem

1. Thành của Lý Bí:

Năm 542, Lý Bí – một hào trưởng ở đất Thái Bình (Sơn Tây) tập hợp nhân dân nổi dậy chống ách đô hộ của nhà Lương. Sau khởi nghĩa thắng lợi (544) Lý Bí xưng đế (Lý Nam Đế), lập nước Vạn Xuân, đóng đô ở vùng Hà Nội[1], dựng chùa Khai Quốc – tiền thân của chùa Trấn Quốc ngày nay. Năm 545 nhà Lương đem quân sang đàn áp. Để chống lại quân Lương, Lý Bí đã cho “dựng thành luỹ bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch” (Lương thư);  “Tháng 6 năm Đại Đồng thứ 11 (545)… quân Lý Bí có vài vạn người lập thành sách ở cửa sông Tô Lịch để chống lại quan quân” (Trần thư)[2]. Tòa thành này cùng vài vạn quân của Lý Bí không chặn được bước tiến của quân địch. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khi (quan của Trần Bá Tiên) đến Giao Châu, vua đem ba vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, vua chạy về Gia Ninh…”[3].

Về vị trí của tòa thành do Lý Bí đắp để chống lại quân Lương, không có tài liệu nào chép cụ thể. Đoạn ghi chép trong Lương thư, Trần thư nhắc tới ở trên chỉ cho biết ở cửa sông Tô Lịch. Vậy cửa sông Tô Lịch (lưu ý, đây là tài liệu đầu tiên nhắc đến con sông này) vào giữa thế kỷ VI nằm ở đâu? Trần Quốc Vượng trong bài khảo cứu Địa lý lịch sử miền Hà Nội (trước thế kỷ XI) nhận xét:  “Hiện nay, ở cạnh làng Yên Thái (Bưởi), bên bờ Hồ Tây có một làng tên là Hồ Khẩu. Tên làng chứng tỏ rằng ngày xưa đầu sông Tô Lịch ở phía đó (sông Tô Lịch lấy nước từ Hồ Tây, chẩy về phía Cầu Giấy, Ngã Tư Sở rồi chảy mãi về nam). Nơi đó có thể là chỗ Lý Nam Đế xây dựng thành trì chống quân Lương. Nhưng thành trì đó nhất định không có quy mô to lớn và chắc chắn lắm vì Lý Bí xây dựng trong lúc rút quân vội vàng từ Chu Diên về, và sau đó lại rút ngay lên giữ thành Gia Ninh (Bạch Hạc, Việt Trì…”[4]. Sáu năm sau, trong bài Bàn thêm về thành Thăng Long thời Lý (Trần Quốc Vượng viết chung với Vũ Tuấn Sán) các tác giả lại xác định cửa sông Tô Lịch là khu vực phố Hàng Buồm – Chợ Gạo hiện nay[5] (thời Trần khu vực này có phường Giang Khẩu, cuối tháng 5 năm 1285 mũi thọc sâu của quân nhà Trần do Trung Thành Vương chỉ huy tập kích quân Nguyên ở đây, sau đổi thành Hà Khẩu).

Chúng ta đều biết sông Tô Lịch có hai cửa. Một cửa thông với sông Hồng mà chỗ hợp lưu vào khoảng phố Hàng Buồm – Chợ Gạo hiện nay, chảy về phía đông ven theo mặt nam Hồ Tây đến Bưởi (đoạn sông này đã được nhắc đến trong Giao Châu ký, không phải là đoạn sông mới được đào từ thời Lý – Trần như có người chủ trương). Một cửa thông với Hồ Tây tại Hồ Khẩu khu vực gần Bưởi hiện nay. Vì thế thật khó xác định thành do Lý Nam Đế đắp ở cửa sông Tô Lịch là thuộc cửa nào, Hồ Khẩu hay Giang Khẩu – Hà Khẩu? Với  tình hình tư liệu hiện có thì câu hỏi này còn phải bỏ ngỏ.

2. Tử Thành của Khâu Hòa:

Năm 602 nhà Tùy phát đại quân xâm lược Vạn Xuân. Cuộc kháng chiến của Lý Phật Tử – Hậu Lý Nam Đế mau chóng thất bại, đất nước một lần nữa lại rơi vào ách cai trị của phong kiến Trung Hoa. Nhà Tùy khôi phục lại quận Giao Chỉ vốn được đặt từ thời Hán (tương đương vùng đồng bằng Bắc Bộ ngày nay) và chuyển trung tâm từ Long Biên về Tống Bình (năm 607). Năm 618 nhà Đường thay thế nhà Tùy thống trị đất nước ta, khôi phục lại hệ thống châu, đặt Giao Châu tổng quản phủ kiêm quản mười châu, trong đó có Tống Châu là miền nội thành Hà Nội hiện nay. Thái thú Giao Châu là Khâu Hòa thần phục nhà Đường, được phong Giao Châu đại tổng quản. Năm 621 Đại tổng quản Khâu Hòa đắp Tử Thành (thành con) bên sông Tô Lịch chu vi 900 bộ – khoảng 1.674 mét (mỗi bộ tương đương 6 thước, mỗi thước bằng 31 cm).

05

Gạch “Giang Tây quân” – thời kỳ Đại La, thế kỷ VIII-IX (khai quật tại Hoàng thành Thăng Long)

Về vị trí của Tử Thành cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. C.L.Madrolle trong Guides Madrolle, Indochine du Nord xác định ở vùng Thủ Lệ, Quần Ngựa ngày nay. Nguyễn Khắc Đạm cũng xác định vị trí của ngôi thành này có nhiều khả năng ở vùng núi Cung vì vùng này cho đến nay vẫn được bao về ba mặt tây, bắc và đông bằng con đường hào còn dấu vết đứt quãng dưới dạng những đầm ao sát nhau liên tục. Mặt khác kích thước của vùng này cũng tương đối phù hợp với kích thước của Tử Thành[6].

Tử Thành tồn tại cho đến mãi sau này. Hơn hai thế kỷ sau, vào năm Hàm Thông thứ 3 (863) quân Nam Chiếu tấn công Tống Bình, tướng là Dương Tử Tấn đóng quân ở Tử Thành[7].

3. La Thành của Trương Bá Nghi:

Sau Tử Thành do Khâu Hòa đắp năm 621, nhiều người cho rằng không có toà thành nào khác được xây dựng mãi cho đến năm 767 khi Kinh lược sứ Trương Bá Nghi đắp La Thành. Gần đây (2000) Phạm Văn Kính chứng minh thực ra thì Trương Bá Nghi chỉ là người sửa sang thêm, còn La Thành  đã phải có từ trước đó, cụ thể là vào năm 756 căn cứ vào ghi chép của Phan Huy Chú: “Đầu đời Chí Đức (756 – 757) đổi làm Trấn Nam đô hộ phủ, đắp La Thành, sau đổi làm An Nam đô hộ phủ”[8]. Theo Phạm Văn Kính điều này phù hợp với ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Trương Bá Nghi đắp lại La Thành” (nguyên văn: phục bồi trúc La Thành) hay Việt sử thông giám cương mục: “Trương Bá Nghi lại đắp La Thành” (nguyên văn: cánh bồi trúc La Thành), đều có nghĩa là đắp lại hoặc đắp thêm[9]. Tuy nhiên, dù thực tế có phải là như vậy thì một điều chắc chắn là La Thành phải đến Trương Bá Nghi mới thực sự là tòa thành để lại dấu ấn rõ rệt trong kiến trúc thành lũy Hà Nội thời Bắc thuộc.

La Thành ban đầu chỉ cao vài thước, nhỏ hẹp và không chắc chắn[10]. Năm 791 và 801 Đô hộ Triệu Xương và Bùi Thái sửa sang thêm La Thành. Năm 808 Trương Châu sửa lại La Thành, gọi là An Nam la thành cao 22 thước (6,82 mét), có ba cửa, trên có lầu; cửa Đông và cửa Tây có lầu ba gian, cửa Nam (là cửa chính) có lầu 5 gian; trong thành có 10 cung, hai bên tả hữu đại sảnh dựng lầu giáp trượng 40 gian để chứa vũ khí. Đây là toà thành đầu tiên có quy mô tương đối lớn.

Vị trí của tòa thành do Trương Bá Nghi đắp (hoặc sửa đắp) và sau này được sửa chữa nhiều lần nằm ở đâu? Đại La thành chí (do Phương dư kỷ yếu q.112 dẫn) nói rằng thành cũ do Trương Bá Nghi đắp và do Trương Châu sửa vốn ở phía nam sông[11]. Nhưng là sông nào? Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán theo Nguyên Hòa quận huyện chí (q.38, 3b-4a )[12] và nhiều tài liệu khác xác định đó là sông Tô Lịch. Nhưng cụ thể ở về phía nào thì chưa đưa ra kết luận dứt khoát. H. Maspero ngờ rằng di tích những luỹ đất còn sót lại cho đến nay ở miền đền Voi Phục là di tích “thành cũ Tô Lịch” (tức thành do Trương Bá Nghi đắp)[13]. Nguyễn Khắc Đạm, dựa vào địa thế sông Tô Lịch, vào hình thế đầm ao hiện đại và bản đồ Hồng Đức đoán định La Thành có giới hạn như sau: mặt tây cách sông Tô Lịch 360 mét, mặt bắc theo sát sông Tô Lịch, mặt đông gồm Ngọc Hà, mặt nam đại khái theo đường Đội Cấn (rất có thể con đường này đại khái được xây dựng theo tường thành phía nam của La Thành còn lại rồi san đi[14]. Tuy có những sai lệch nhất định nhưng các ý kiến đều cơ bản thống nhất La Thành nằm dịch về phía tây quận Ba Đình hiện nay.

La Thành được đắp để bao lấy Tử Thành. Danh từ La Thành vốn không phải là danh từ riêng như hầu hết các nhà Hà Nội học xác nhận. La có nghĩa là bao bọc, la thành là thành bao (ôm lấy) Tử Thành, rồi dần trở thành La Thành như một danh từ riêng.

4. Giao Châu thành của Lý Nguyên Hỷ:

Theo Giao Châu ký do Việt điện u linh tập dẫn, năm 824 Đô hộ Lý Nguyên Hỉ thấy ở phía bắc thành có dòng nước chảy ngược nên sai bói chọn đất để dời phủ trị. Cựu đường thư chép năm 825 Lý Nguyên Hỷ xin dời thành sang bờ bắc, nhưng được ít lâu lại trở lại chỗ cũ[15]. Con sông có dòng nước ngược chép ở trên chính là sông Tô Lịch (sử sách nhắc nhiều đến hiện tượng chảy ngược dòng của sông Tô Lịch). Về sau đô hộ Điền Trang hàng năm bắt dân nộp tiền làm lũy gỗ ở quanh thành. Năm 858 Đô hộ Vương Thức lấy tiền thuế một năm mua tre gỗ trồng quanh 12 dặm thành, đào hào, rào lũy, ngoài lại trồng tre gai. Vì vậy thành đó còn mang tên là thành Lặc Trúc[16]. Thành này còn có các tên gọi là thành Giao Châu hay thành Giao Chỉ và theo Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán thì đây chính là phủ thành đô hộ. Trong một số bộ sử phân biệt tòa thành do Trương Bá Nghi đắp là thành cũ, còn thành này là thành hiện tại – kim thành. Ông Nguyễn Khắc Đạm sử dụng thuật ngữ Kim Thành như một danh từ riêng.

06

Đĩa đèn dầu lạc men nâu – thời Đường, thế kỷ VIII-IX (khai quật tại Hoàng thành Thăng Long)

Về vị trí của tòa thành này, Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán xác định: Phía bắc thành là sông Tô Lịch; phía đông thành ở gần sông Hồng. Như thế, thành này nằm dịch hẳn về phía đông. Nguyễn Khắc Đạm cũng có ý kiến tương tự.

Như vậy, cho đến khoảng giữa thế kỷ IX tại khu vực nội thành Hà Nội hiện nay có tới ba tòa thành cùng đồng thời tồn tại. Đó là Tử Thành đắp từ thời Khâu Hoà (621), La Thành đắp từ thời Trương Bá Nghi (767) và Giao Châu thành đắp từ thời Lý Nguyên Hỉ (825). Tử Thành không thấy có tên gọi nào khác. La Thành do Trương Bá Nghi đắp các tài liệu về sau thường gọi là thành cũ sông Tô Lịch, Giao Châu thành hay Giao Chỉ thành gọi là Kim thành – thành hiện tại. Các nhà nghiên cứu lịch sử Hà Nội nhắc nhiều đến Tử Thành của Khâu Hòa và La Thành của Trương Bá Nghi, ít nhắc đến Giao Châu hay Giao Chỉ thành. Tuy nhiên, nhiều sử liệu đương thời xác nhận sự tồn tại của cả ba tòa thành. Sách Man thư chép về cuộc tấn công của quân Nam Chiếu năm 863 nhắc đến cả ba tòa thành này. Phàn Xước, người giúp việc văn thư cho Kinh lược sứ phủ An Nam đô hộ Thái Tập, tác giả sách Man thư mô tả khá kỹ về các sự kiện trên:

“Năm Hàm thống thứ 3, tháng Chạp, ngày 27 (đầu 863) giặc Man (Nam Chiếu) đến sát thành trì Giao Châu… Quân Hà Man đặt doanh trại ở thành cũ sông Tô Lịch…”

“Năm Hàm Thông thứ 4, tháng Giêng, ngày 23 (864), Thái Tập đứng trên thành dùng nỏ bắn được 200 tên… Ngày 7 tháng 2 thành bị hãm… Thái Tập bị trúng tên… những người tay chân đều chết hết cả… Kiện tướng Kinh Nam, Giang Tây, Ngạc, Nhạc, Tương Châu ước hơn 400 người mang mạch đao, cưỡi ngựa chạy đến ven bờ sông phía Đông thành. Đô ngu hậu Kinh Nam Nguyên Duy Đức, Quản đô hầu Đàm Khả Ngôn, Phán quan Giang Tây quân Truyền Môn bảo tướng sĩ rằng: “Các ngươi! Bến sông không có thuyền, xuống nước tất chết, cùng với anh em mỗi người giết được hai tên giặc Man chúng ta cũng được lợi rồi”. Bèn cùng đốc xuất nhau vào đông La thành, xúm vây ở cổng, một bên bày trường đao, một bên bày trường mã đánh bất ngờ, quân Man đang từ bên sông ngoài thành cưỡi ngựa vào cổng không phòng bị gì… khoảng hai ba nghìn tên giặc và vài ba trăm cỗ ngựa bị giết. Man tặc Dương Tư Tấn ở trong Tử Thành lúc canh một mới biết và ra cứu”.

Sách Tư trị thông giám của Tư Mã Quang đời Tống (cuối IX) cũng chép tương tự:

“Năm Hàm Thông thứ 4 (863), mùa Xuân, tháng Giêng, ngày Canh ngọ, quân Nam Chiếu vây hãm Giao Chỉ. Những người tay chân của Thái Tập đều chết… Kẻ liêu thuộc là Phàn Xước mang ấn vượt qua sông. Tướng sĩ Kinh Man, Giang Tây, Ngạc, Nhạc, Tương Châu hơn 400 trăm người đều đều chạy đến bến nước ở phía đông thành. Ngu hầu Kinh Nam là Nguyên Duy Đức bảo đám đông: “Chúng ta không có thuyền, xuống nước tất chết, chẳng thà quay lại về thành đánh quân Man, lấy một mạng đổi hai mạng giặc Man cũng còn có lợi”. Bèn quay lại thành vào cửa Đông La. Quân Man không phòng bị. Bọn Duy Đức thả binh lính giết hơn hai nghìn giặc. Đến đêm tướng Man là Dương Tư Tấn mới từ Tử Thành ra cứu. Bọn Duy Đức đều bị giết. Quân Nam Chiếu hai lần vây hãm Giao Chỉ vừa giết vừa bắt làm tù binh đến 15 vạn người. Chúng lưu lại 2 vạn quân, sai Dương Tư Tấn đóng ở Giao Chỉ thành”[17].

5. Đại La thành của Cao Biền:

Sử sách Trung Quốc có chép về sự kiện Cao Biền đắp La Thành (như Tân Đường thư (q.224 hạ), Tự trị thông giám (q.250, 25b) và cho biết thêm chu vi thành là 3.000 bộ (khoảng 5,58 km), trong có 40 vạn gian nhà. Việt sử lược chép cụ thể: “Biền đắp lại La Thành chu vi 1980 trượng 5 thước (6,139 km), cao 2 trượng 6 thước (8,06 m), chân thành rộng 2 trượng 6 thước (8,06 m), bốn mặt xây nữ tường (tường nhỏ xây trên thành lớn) cao 5 thước 5 tấc  (1,7 m), 55 địch lâu (lầu vọng địch), 5 môn lâu (lầu xây trên cửa thành), 6 ủng môn (cửa tò vò, cửa nách), 3 ngòi nước, 34 con đường; lại đắp đê chu vi 2125 trượng 8 thước (6,589 km), cao 1 trượng 5 thước ( (4,65 m), chân đê rộng 3 trượng (9,3 m), lại dựng hơn 5 gian nhà”[18]. Đại Việt sử ký toàn thư về cơ bản chép như Việt sử lược, chỉ có khác biệt đôi chút.

07

Tượng đầu linh thú trang trí góc mái – thời kỳ Đại La, thế kỷ VIII-IX (khai quật tại Hoàng thành Thăng Long)

Về vị trí của thành Đại La, từng có nhiều ý kiến không thống nhất. Các nhà nghiên cứu phương Tây như Pelliot, CL.Madrolle, một số tác giả Việt Nam như Đào Duy Anh, Trần Huy Bá và tập thể tác giả sách Lịch sử thủ đô Hà Nội đều cho vị trí của thành Đại La do Cao Biền đắp là ở khu vực Quần Ngựa phía nam đường Hoàng Hoa Thám ngày nay. Quan điểm này trái ngược với ý kiến của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán. Phủ định ý kiến của các tác giả trên Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán đưa ra bốn cơ sở:

– Nếu Cao Biền chỉ đắp lại An Nam la thành thì vị trí của thành đó về phía đông đã ở sát sông Hồng mà chu vi chỉ có hơn 6 km, cho nên không thể bao quanh cả một vùng từ  bờ sông Hồng ở phía đông đến vùng Quần Ngựa ở phía tây được

– Đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm hiện nay là do Cao Biền dựng ở cửa Đông ngoài thành bên bờ sông Hồng. Thần tích đền Bạch Mã, sách Việt điện u linh (viết đầu thế kỷ XIV), Lĩnh Nam chích quái đều khẳng định như vậy. Bấy giờ sông Hồng còn ăn sâu vào vào sát đền Bạch Mã hiện nay.

– Theo Hoàng Việt địa dư thì quán Huyền Thiên ở phường Đồng Xuân xưa (nay ở số 54 phố Hàng Khoai gần chợ Đồng Xuân) thờ Huyền Thiên Đại Đế, quán này lập từ thời thuộc Đường ở trong phủ thành.

Như vậy La Thành hay Đại La thành thời thuộc Đường về phía đông bao gồm một phần khu chợ Đồng Xuân và khu Hàng Buồm hiện nay và ở sát ngay bờ sông Hồng. Điều đó cũng phù hợp với sự kiện Lý Thái Tổ từ Hoa Lư dời đô ra thành Đại La đã đỗ thuyền ở dưới chân thành.

08

Ngói ống có đầu trang trí văn nhũ đinh, thời Đại La, thế kỷ VII-IX (khai quật tại Hoàng thành Thăng Long)

– Theo truyền thuyết, vị thần xuất hiện ra cho Cao Biền thấy tự xưng là “thần khí thiêng đất Long Đỗ”. Long Đỗ chính là một tên khác của núi Nùng trên đó có điện Kính Thiên thời Lê hiện còn dấu vết ở trong thành Hà Nội ngày nay[19]

Nguyễn Khắc Đạm cũng cùng quan điểm với Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán, đồng thời chỉ định rõ thêm: mặt đông của thành Đại La sát với sông Hồng (sông Hồng lúc này còn ăn sát tới khoảng phố Hàng Ngang, Hàng Đào), theo sông Tô Lịch ở phía bắc, bao lấy núi Nùng ở phía tây (nhưng không cách xa quá núi Nùng), rồi quặt sang phía sông Hồng để nối với mặt đông. Tường thành phía tây có thể là tương đương với đường Hoàng Diệu hiện nay.

Đại La thành do Cao Biền đắp là để bao lấy Kim Thành (như trên đã nói Nguyễn Khắc Đạm dùng như danh từ riêng, trong khi Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán dịch nghĩa là thành hiện nay, còn tên gọi được nhắc đến trong sử sách là thành Giao Châu hay thành Giao Chỉ).

Như vậy, cho đến cuối thế kỷ IX, khu vực trung tâm Hà Nội hiện nay có hai hệ thống thành luỹ: hệ thống phía tây với Tử Thành (621) được bao bởi La Thành (767); hệ thống phía đông với Kim Thành hay Giao Châu thành, Giao Chỉ thành (825) được bao bởi Đại La Thành (866).

09

Gạch lát trang trí nổi hoa văn hình cá sấu bơi trong sóng nước, thời Đại La, thế kỷ VII-IX (khai quật tại Hoàng thành Thăng Long)

Những ý kiến trên gần như không có cứ liệu thực tế (thành luỹ) để chứng minh. Tuy nhiên, những lập luận trên cơ sở thư tịch cổ và vị trí một số kiến trúc cổ có thể đã có từ thời Đường cũng tỏ ra tương đối có sức thuyết phục. Việc thể hiện các thành luỹ này trên bản đồ vì thế vừa mang ý nghĩa phỏng đoán – mặt khác việc xác định vị trí và phạm vi của nó cũng mang tính tương đối.

15 tháng 5 2021

Ngược dòng lịch sử – Hà Nội thời kỳ tiền Thăng Long: Kỳ 1 “Vài nét về vùng đất Hà Nội thời kỳ tiền Thăng Long”

12/05/2017 6,419 Xem

Vùng đất Hà Nội hiện nay nói chung, khu vực các quận nội thành nói riêng, là một trung tâm tụ cư sớm của người Việt cổ. Trên địa bàn Hà Nội các nhà khảo cổ học đã phát hiện được nhiều di chỉ văn hóa thời đại đồng thau, từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tại khu vực các quận nội thành, tìm thấy ở vùng Quần Ngựa (Ba Đình), hồ Bẩy Mẫu (Hai Bà Trưng) các di chỉ thuộc thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên (sơ kỳ đồng thau, cách ngày nay 3.500 đến 4000 năm); ở vùng ven Hồ Tây (quận Tây Hồ), Ngọc Hà (quận Ba Đình) các di chỉ và hiện vật thuộc thời kỳ văn hóa Đông Sơn (sơ kỳ sắt, cách ngày nay trên dưới 2.000 năm cho đến gần 3.000 năm).

cac-loai-riu-da-di-chi-dinh-trang-co-loa-khai-quat-2010

Các loại Rìu đá – di chỉ Đình Tràng, xã Cổ Loa (khai quật khảo cổ năm 2010)

Khu vực trung tâm Hà Nội hiện nay thời vua Hùng, vua Thục thuộc về bộ Tây Vu[1]; thời thuộc Hán là huyện Tây Vu (do bộ Tây Vu thời dựng nước – nhà Hán chuyển thành) và huyện Phong Khê; thời thuộc Ngô – Tấn là huyện Vũ An và Nam Định đều thuộc quận (có khi đổi thành châu) Giao Chỉ, Giao Châu. Cho đến khoảng giữa thế kỷ V vùng trung tâm Hà Nội mới được đặt thành một đơn vị hành chính (khoảng đời Hiếu Vũ Đế nhà Lưu Tống (454 – 456), đó là huyện Tống Bình (sau đó đổi là quận). Quận Tống Bình ở thế kỷ V, VI gồm các huyện là Nghĩa Hoài, Tuy Ninh… Năm 589 nhà Tùy thống nhất Trung Quốc và tiến hành một số thay đổi hành chính trên vùng đất nước ta: đặt 5 quận, trong đó có quận Giao Chỉ – tức vùng Bắc Bộ gồm 9 huyện, trong đó có huyện Tống Bình. Năm 618 nhà Đường thay thế nhà Tùy cai trị Trung Quốc, đặt Giao Châu tổng quản phủ kiêm quản 10 châu, trong đó có châu Tống Bình (năm 621); năm 679 đặt An Nam đô hộ phủ gồm 12 châu, 59 huyện do chức Kinh lược sứ (sau đổi làm Tiết độ sứ) đứng đầu, bao gồm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ Đèo Ngang ra và thêm cả phần phía Nam hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông của Trung Quốc.

02

Ngói chữ nhật lợp góc mái trang trí mặt linh thú – thời kỳ Đại La, thế kỷ VIII-IX (khai quật tại Hoàng thành Thăng Long)

Đầu thế kỷ VII (năm 607) chính quyền đô hộ nhà Tùy chuyển trị sở của quận Giao Chỉ từ Long Biên (Bắc Ninh) về huyện Tống Bình. Huyện Tống Bình, trị sở của quận Giao Chỉ đời Tùy, tới năm 621 nhà Đường đổi là Tống Châu gồm ba huyện: Tống Bình (là châu trị), Hoằng Giáo (hay Hoằng Nghĩa), Nam Định. Đến năm 622 nhà Đường lại chia huyện Tống Bình, đặt thành hai huyện Giao Chỉ, Hoài Đức. Vậy huyện Giao Chỉ mà Tân Đường thư cho là trị sở của Giao Châu chính là một phần huyện Tống Bình cũ. Năm 623, Tống Châu gọi là Nam Tống Châu. Năm đầu hiệu Trinh Quán (627) nhà Đường bỏ Nam Tống Châu, cả ba huyện Hoằng Giáo, Hoài Đức, Giao Chỉ lại nhập lại thành huyện Tống Bình, lúc này thuộc Giao Châu và là trị sở của Giao Châu. Còn tên huyện Giao Chỉ từ năm 627 trở đi lại được đặt cho đất Nam Từ Châu cũ (gồm ba huyện Từ Liêm, Ô Diên, Vũ Lập nay nhập thành huyện Giao Chỉ)[2]. Phương dư kỷ yếu cho rằng huyện Giao Chỉ đời Tùy là đất huyện Luy Lâu đời Hán, năm 621 đặt Giao Châu ở đó, lại tách đặt ba huyện Từ Liêm, Ô Diên, Vũ Lập đặt Từ Châu. Năm 623 gọi là Nam Từ Châu, năm 627 bỏ châu, ba huyện sáp nhập vào huyện Giao Chỉ. Năm 628 “dời huyện trị (Giao Chỉ) đến thành Giao Chỉ cũ nhà Hán, vẫn là trị sở Giao Châu. Năm đầu hiệu Bảo Lịch (825) dời châu trị đến huyện Tống Bình” [3]. Điều này sai. Trong hành trình từ Bắc Bộ nước ta sang Ấn Độ mà Giả Đam ghi lại đời Trinh Nguyên (785 – 805) có chép “Từ (phủ trị) An Nam đi qua Giao Chỉ, Thái Bình, hơn 100 dặm thì đến Phong Châu[4] (từ Hà Nội qua Hoài Đức sang sông đến Yên Lãng rồi đến Việt Trì (Gia Ninh, trị sở Phong Châu) – TQV). Vậy Giao Chỉ cuối thế kỷ thứ VIII không phải là trị sở Đô hộ phủ. Còn huyện Nam Định thì vốn có từ đời Ngô, đến đời Tùy bị sáp nhập vào huyện Tống Bình rồi đến năm 621 tách khỏi huyện Tống Bình làm thành một huyện thuộc Tống Châu, đến năm 627 Tống Châu bị bỏ thì Nam Định thành một huyện riêng thuộc Giao Châu, đất đai đại để ở dọc sông đào Phủ Lý (Hà Nam) và miền hữu ngạn sông Hồng[5]. (Đầu đời Nguyễn, Hà Nam còn là một bộ phận của Hà Đông và Hà Nội). Địa phận của huyện Tống Bình xưa là khá rộng lớn. Nó bao gồm một phần đất của các tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây, Hưng Yên và đa phần Hà Nội (trừ hai huyện Sóc Sơn và Từ Liêm) bây giờ.

03

Giếng nước, thời Đại La – thế kỷ IX và được tái sử dụng vào thời Lý – thế kỷ XI (khai quật tại Hoàng thành Thăng Long)

04

Bình men xanh 4 quai thời Đường, thế kỷ VII-IX (khai quật tại Hoàng thành Thăng Long)

Năm 679 nhà Đường lập An Nam đô hộ phủ thì Tống Bình trở thành trung tâm của phủ An Nam đô hộ rộng lớn cho đến ngày Khúc Thừa Dụ khôi phục nền tự chủ. Họ Khúc, họ Dương đóng thủ phủ ở đây. Từ Ngô Quyền – nhà Ngô (939 – 965), qua Đinh (968 – 980) đến Tiền Lê (981 – 1009) kinh đô của quốc gia độc lập người Việt chuyển về Cổ Loa (Ngô), hay xây dựng đô thành mới Hoa Lư (Đinh, Tiền Lê) và vì thế thủ phủ Tống Bình có phần suy giảm. Tuy nhiên, nó vẫn đã là một thành thị và sẽ sống dậy, phát triển về chất, ở một tầm cao mới sau ngày Lý Công Uẩn định đô trở thành một trung tâm đầu não hành chính (quận, phủ) việc thiết lập các cơ sở làm việc (dinh thự) và bảo vệ nó (thành luỹ) cũng được tiến hành.

12 tháng 3 2019

Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và hưng khởi của đô thị.

Vào các thế kỉ XVI – XVIII, nhiều đô thị mới hình thành ở miền Bắc và miền Nam. Khu cư dân Thăng Long cũng phát triển với tên Kẻ Chợ gồm 36 phố phường và 8 chợ.

Một thương nhân nước ngoài đã mô tả : “Các phố ở Kẻ Chợ đều rộng, đẹp và lát gạch từng phần...” Một thương nhân khác nói thêm : “Tất cả những vật phẩm khác nhau bán trong thành phố này đều được dành riêng cho từng phường...”

Phố Hiến (phía nam thị xã Hưng Yên ngày nay) ra đời và phát triển phồn thịnh. Nhân dân có câu ‘Thứ nhất Kinh Kì, thứ nhì Phố Hiến ”. Theo người phương Tây mô tả, bấy giờ Phố Hiến có khoảng 2000 nóc nhà.

Hội An là thành phố cảng lớn nhất ở Đàng Trong (trên đất Quảng Nam ngày nay), phát triển chủ yếu ở các thế kỉ XVII - XVIII.

Giáo sĩ Bo-ri đã viết : “Hải cảng đẹp nhất, nơi mà thương nhân ngoại quốc thường lui tới buôn bán là hải cảng thuộc tỉnh Các-ci-am (Quảng Nam)... Thành phố đó lớn lắm, đến nỗi người ta có thể nói nó có 2 thị trấn, một của người Trung Quốc và một của người Nhật Bản.” (Tường trình về vương quốc Đàng Trong)