K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 11 2022

Bạn tham khảo nha :

  Gia đình là một thứ gì đó thiêng liêng và không thể diễn tả hết được bằng lời. Truyện ngắn Giấc mơ của bà nội do Mai Văn Kháng viết đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình cảm gia đình đầm ấm. 

       Trong truyện ngắn “Giấc mơ của bà nội”, hình tượng người bà tần tảo, yêu thương con cháu được thể hiện rất rõ ràng thông qua ngoại hình và những cử chỉ, hành động yêu thương của bà giành cho con cháu của mình. Mỗi chủ nhật lúc 9 giờ, bà đều từ quê lên thành phố thăm con cháu. Bà đã ngoài bảy mươi, sức khỏe bà đã giảm sút, bà không đi xe đạp, rồi không đi bộ đến chơi với chúng tôi ngày chủ nhật nữa. Bà đi xe ôm được một thời gian rồi sau cùng không dám đi cả xe máy bố tôi đến đón. Bà kêu sóc, đau xương cốt. Bà đi xích lô và bảo người đạp xe đi thật chậm, sức khỏe ngày càng đi xuống. Dần dần như thế bà đã ít thăm con cháu hơn. Bà đã sống một cuộc sống sôi nổi bền bỉ suốt từ năm 16 tuổi làm thợ tiện ở xưởng quân giới, cho hết tuổi 60 mới về nghỉ hưu, suốt đời bà chăm chỉ với việc chung, về già bà vẫn hết lòng thương yêu và lo toan cho con cháu. 

Khi bà bị ngã phải nhập viện, thân hình bà ngày càng lép xẹp, lọt thỏm vào lòng nệm. Bà vẫn dùng chiếc túi xách bằng vải thô ông vẫn dùng từ ngày còn là nhân viên phục vụ trên tầu chạy tuyến đường sắt Lao Cai - Hà Nội. Bà yêu quý và giữ gìn những kỉ vật mà ông để lại. Cái túi ấy to đến mức đựng được cả thế giới bên trong, thế giới mà tràn ngập những quà bánh mà bà mang từ quê lên. Nào là nhãn tháng sáu, na tháng bẩy, roi mùa hạ, gương sen mùa thu. Bà con luôn quan tâm đến sức khỏe của mẹ tôi và bố tôi. Biết mẹ hay bị nhiệt nên đã chuẩn bị bột sắn, biết bố tôi mới chớm bị cao huyết áp đã chuẩn bị sẵn hoa hoè mà bà đã hái rồi sao phơi, đóng vào từng bọc giấy báo mang ra. Bà luôn nấu những món ngon mà ở nhà bố mẹ bận không nấu được cho các cháu ăn. Bà nói rằng do bà không phải lo công việc nên rảnh rỗi mới có thời gian nấu cho các con, các cháu ăn. Những món ăn được bà coi là “bày vẽ” là những món mà bọn trẻ đều rất thích nhưng do bận rộn nên bố mẹ không có thời gian nấu cho ăn. 

Khi đến thăm nhà con cháu, bà không đến để nghỉ ngơi hưởng thụ mà luôn chân luôn tay, tất bật với những công việc nhà. Nào là sửa sang lại bàn thờ, nào là phủi bụi những tấm huân chương của con trai. Nào là dọn dẹp, quét quáy, lau chùi bát đĩa, bàn ghế. Bà chải đầu, tết tóc cho cái Tú. Lại còn dậy nó chơi chuyền, chơi bắt hình giây chun. Dù đã già yếu nhưng bà không ngần ngại việc gì. Luôn lo cho con cháu được tươm tất, đủ đầy. Dù đã yếu hơn và không thăm con cháu được thường xuyên nên bà rất nhớ chúng. 

Ông đã mất lâu, bà thì ở một mình. Con cháu muốn bà lên ở cùng nhưng bà lo lắng cho vườn tược, bàn thờ tổ tiên ở nhà. Ở nhà một mình buồn chán làm bà càng nhớ con cháu hơn. Bà bắc thang để hái nụ hoa hoè cho con trai, thang trượt, bà bị ngã, nằm bất tỉnh, may có người hàng xóm gọi điện báo rằng bà nằm ở bệnh viện Xanh Pôn. Tình yêu của bà còn thể hiện rõ nhất khi bà được các con đón về nhà, nhìn thấy các con lo lắng, bật khóc vì mình, bà đã khóc theo và cố gắng ăn thật mạnh để nhanh khỏe cho con cháu vui. Có thể thấy được tình yêu to lớn của bà giành cho con cháu mình nhiều như nào.

       Câu chuyện không chỉ thể hiện tình yêu của bà giành cho con cháu mà còn thể hiện tình yêu thương của con và các cháu giành cho bà, cho mẹ của mình. Cứ mỗi lẫn bà đến thăm là cả nhà đều ríu rít vui mừng. Các cháu thì quấn lấy bà suốt ngày, cùng bà vui chơi, cùng bà trò chuyện. Được thưởng thức những bữa cơm bà nấu là niềm hạnh phúc của gia đình nhỏ này. Các cháu nhỏ tấm tắc khen tay nghề của bà, cái Tú còn nũng nịu đòi bà nấu món yêu thích vào tuần sau. Thấy vậy, người mẹ đã nghiêm túc bảo con không được đòi hỏi và ỷ lại vào bà. Nhưng đáp lại lười nói nghiêm túc đó chỉ là cái cười của hai bà cháu và vuốt tóc nhẹ nhàng của bà lên mái tóc cái Tú. Khi nghe tin bà bị ngã, hai người con khuôn mặt rầu rĩ buồn bã, họ hối hận vì đã không để ý và chăm sóc bà. Khi bà được xuất viện, học đã đón bà về nhà để chăm sóc cho thuận tiện. Dặn dò con cái cẩn thận về việc tránh làm ồn và tranh thủ khoảng thời gian không đi học chăm sóc bà. Người con gái luôn ân cần, chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ của mẹ. Người con trai khi thấy mẹ mình yếu ớt cố gắng ăn từng miếng thì ôm mặt khóc vì thương mẹ. Thấy thế, bà cũng chạnh lòng mà cố gắng ăn vì con vì cháu, vì sức khỏe của mình. 

        Chi tiết bà mơ thấy bị trộm ăn cắp mất con ngan chính là một trong những điểm sáng của tác phẩm. Một kết thúc đẹp khi bà nội đã dần dần khỏe mạnh hơn. Thế mới thấy, ngay cả lúc đau ốm bà cũng lo toan cho con cháu.

        Câu chuyện tuy không dài nhưng đã miêu tả được toàn cảnh bức tranh về gia đình ấm áp và tràn đầy tình yêu thương. Qua đây, em mới thấy được sự vô tâm của mình giành cho gia đình. Vì mải chạy theo những cám dỗ, chạy theo đồng tiền mà đôi khi quên mất không giành thời gian cho gia đình. Câu chuyện này đã giúp em rút ra được những bài học đắt giá và cho em cảm nhận sâu sắc hơn về tình cảm trong gia đình.

22 tháng 11 2022

 Trong gia đình thân thương của mỗi người, ngoài người mẹ, người phụ nữ mà ai ai cũng yêu mến, quý trọng và biết ơn đó là người bà. Bà là người đã dành hết tình cảm của mình không chỉ cho con mà còn cho chính những người cháu của mình. Đặc biệt trong đoạn truyện sau: "Bao giờ cùng vậy... tiên tổ" trích "Giấc mơ của bà nội", người đọc càng thêm cảm thông, biết ơn và thấu hiểu với phẩm chất, tính cách của người bà trong truyện.

       Người bà trong câu chuyện đã không quản ngại đường xa để mang những món quá của quê hương lên cho con cháu của mình. Món quà ấy được tác giả miêu tả như "có đủ mùa nào thức ấy: Nhãn tháng sáu. Na tháng bảy. Roi mùa hạ. Gương sen mùa thu.". Thêm bột sắn cho mẹ và hoa hòe cho ba. Những món quà rất giản dị và thân quen nơi làng quê yêu dấu. Bà vẫn không một lời kêu than, mang nhiều đồ nặng mà bà chỉ nghĩ cho con cháu, mong con cháu được đầy đủ và sống tốt. Không chỉ thế, bà còn là một người yêu thương, quan tâm và luôn nhớ đến người chồng của mình. Bà biết ông là một người chịu nóng rất giỏi, dù lúc ngồi ở toa tàu bí gió, người ông cũng chả bao giờ thấy ra tí mồ hôi nào. Rồi mỗi khi ngày chủ nhật đến, bà lại bận rộn, tất bật với những công việc quen thuộc như: sửa sang lại bàn thờ, phủi bụi trên những tâm huân chương của bố nhân vật "tôi", bà luôn tay luôn chân quét quáy, lau chùi bát đĩa, bàn ghế, đem quần áo của cả nhà ra phơi phóng, rồi đem ra nắng phơi, cho nó thơm như lời bà nói. Bà chải đầu tết tóc cho cái Tú rồi còn dậy nó chơi chuyền, chơi bắt hình dây chun. Bà dành thời gian thật nhiều để vun vén, chăm sóc cho mái nhà thân yêu. Rồi khi biết nhân vật "tôi" bị gầy gò, ghẻ lở, bà đã thốt lên xót xa về sự chăm sóc con cái không cẩn thận của bố mẹ nhân vật "tôi". Rồi bà ra chợ mua nắm lá về tắm cho nhân vật "tôi" đồng thời nhắc nhở người mẹ phải tắm như vậy cho nhanh khỏi và cần chú ý đến con cái hơn. Một người luôn yêu thương và quan tâm con cháu mình như vậy nhưng bà lại mất ông, bà sống một mình ở làng. Vì còn họ hàng nội ngoại, nhà cửa, vườn tược, còn hàng xóm láng giềng, còn là nơi đi về của các hương hồn tiên tổ nên bà không thể ra ở với bố mẹ nhân vật "tôi". Người bà trong tác phẩm trên hiện lên với thật nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Trước tiên, đó là một người vợ hết mực yêu thương, quan tâm và nhớ những gì về chồng mình, bà luôn một lòng với ông của các cháu. Sau đó, bà chính là một người mẹ dành hết sự thân thương, quý trọng và chăm sóc với chính các con của mình, bà luôn muốn con mình được sống đầy đủ và sung túc. Cuối cùng, bà là một người bà quan tâm, yêu chiều và để ý đến những người cháu của mình. Bà cũng muốn các cháu của mình lớn lên khỏe mạnh, luôn vui vẻ và hạnh phúc. Không chỉ vậy, bà còn là một người phúc hậu, có tấm lòng yêu quê hương, đất nước, luôn muốn dành những gì mình có để cống hiến cho sự nghiệp phát triển của quê hương. Như vậy, người bà hiện lên thật đẹp, thật đáng để mỗi người học tập và noi theo.

        Qua đoạn truyện trên, người đọc càng thêm trân trọng, yêu quý và biết ơn những tấm lòng mà người bà trong truyện đã trao cho chồng mình, con cái và mọi người. Đồng thời, qua đó, tác giả còn thể hiện tình yêu thương, cảm thông và tự hào về những con người đáng quý như vậy. Mỗi người hãy biết trân quý, biết ơn, đồng thời quan tâm, chăm sóc đến với người bà của mình, biết cách để về sau chính mình sẽ không hối hận hay tiếc nuối về những việc mình chưa thể làm được với người bà thân yêu của mình.

18 tháng 8 2021

Tham khảo nha:

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: tình yêu thương giữa con người.

(Học sinh tự lựa chọn cách mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp cho bài làm văn của mình).

2. Thân bài

a. Giải thích

Tình yêu thương: tình cảm giữa con người với con người, là sự đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia, giúp đỡ nhau,…

Con người chúng ta hãy biết yêu thương, san sẻ những điều nhỏ nhặt nhất với những người xung quanh để nhận lại tình yêu thương, sự tôn trọng của mọi người, làm cho cuộc sống này trở nên vui vẻ và hạnh phúc hơn.

b. Phân tích

Trong xã hội có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ những người đó làm xoa dịu, giảm bớt nỗi đau của họ, xã hội cũng sẽ phát triển đẹp đẽ, vững mạnh hơn.

Khi giúp đỡ người khác, ta sẽ nhận lại sự kính trọng, niềm tin yêu của người khác và cả sự sẵn sàng giúp đỡ lại mình lúc mình gặp khó khăn.

Mỗi người biết chia sẻ, yêu thương, giúp đỡ người khác sẽ góp phần làm cho xã hội này giàu tình cảm hơn, phát triển văn minh hơn.

c. Chứng minh:

Học sinh tự lấy dẫn chứng về nhân vật, sự việc yêu thương, chia sẻ làm minh chứng cho bài làm văn của mình.

*Lưu ý: dẫn chứng phải tiêu biểu, nổi bật, xác thực được nhiều người biết đến.

d. Phản biện

Trong xã hội vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, lại có những người vô cảm mặc kệ nỗi đau của đồng loại,… → những người này cần bị phê phán, chỉ trích.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề cần nghị luận: ý nghĩa, vai trò của tình yêu thương giữa con người trong cuộc sống hiện nay và rút ra bài học, liên hệ bản thân.

19 tháng 8 2021

Cảm ơn bạn nhiều (:

 

20 tháng 6 2023

Gia đình là sự gắn kết giữa những người có cùng máu mủ, huyết thống trong một nhà. Đó chính là tình cảm đẹp đẽ thiêng liêng nhất ai cũng nâng niu trân trọng bằng cả trái tim. Một gia đình đầy đủ khi có tình yêu thương và sự chăm sóc của cha mẹ, sự sẻ chia và đồng cảm giữa các thành viên với nhau. Gia đình là nơi đem lại sự bình yên cho mỗi người sau những bộn bề lo toan của cuộc sống. Nó dạy cho chúng ta giá trị của tình yêu, tình cảm, chăm sóc, trung thực, tự tin và cung cấp cho chúng ta công cụ và gợi ý đó là cần thiết để có được thành công trong cuộc sống, tình cảm gia đình là mối quan hệ gắn bó thiêng liêng giữa những người ruột thịt có quan hệ về huyết thống. Đó là nơi mà mỗi người đều muốn trở về khi vui vẻ, hạnh phúc hay khi khó khăn, bất hạnh. Chúng ta luôn nhận được sự chia sẻ, bảo vệ và tình yêu thương vô bờ của những người thân yêu. Có gia đình là có hạnh phúc và thật bất hạnh cho những ai không có được một gia đình. Có những em bé chỉ mong ước trong đời được ấp ủ trong vòng tay mẹ cha, có những người không hề có được một gia đình trọn vẹn. Trong khi đó lại có những kẻ có gia đình mà không biết trân quý, thờ ơ, lạnh lùng với chính tổ ấm của mình để rồi sau này mất đi mới cảm thấy hối hận. Vì vậy, chúng ta, những người may mắn được sinh ra và lớn lên trong một gia đình trọn vẹn, hãy biết trân quý những phút giây hạnh phúc, hãy biết quý trọng người thân và biết bồi đắp tình thương gia đình.

28 tháng 1 2019

Kim Lân với phong cách viết giản dị, gần gũi với đời sống của nhân dân nên ông được xem là nhà văn của làng quê Việt Nam. Những sáng tác của ông luôn chạm vào trái tim người đọc cảm xúc ấm áp, thân quen nhất. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời giữa bối cảnh đất nước ta đang lầm than, nạn đói hoàng hành. Tác giả đã khắc họa thành công nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ khắc khổ nhưng tràn đầy tình yêu thương.

Bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm, bà chỉ xuất hiện khi anh cu Tràng dẫn vợ vừa nhặt được về nhà. Có lẽ khoảnh khắc này người đọc sẽ bắt đầu nhận ra được người mẹ nghèo này có thái độ, tình cảm như thế nào dành cho con.

Bà cụ Tứ hiện lên là người đàn bà khắc khổ, nghèo đói với cái dáng “lòng khòng”, “khập khiễng bước từ ngoài cổng bước vào”. Với một loạt từ dùng để chỉ hình dáng và cử chỉ của bà như “nhấp nháy mắt”, “lập khập bước đi”, “lễ mễ” đã gợi lên trong lòng người đọc hình ảnh người mẹ già không còn khỏe mạnh và tinh anh nữa. Giữa xóm ngụ cư nghèo đói, giữa sự tan tác, hoang sơ của cảnh vật và con người, hình ảnh người mẹ này hiện lên khiến người đọc không khỏi xót xa.

Mặc dù bà chỉ xuất hiện khi Tràng dẫn vợ về nhà nhưng lại ám ảnh đến người đọc khi đã gấp trang sách lại. Vì Kim lân đã để cho bà xuất hiện với những nét tính cách và tình cảm yêu thương, cảm thông, chịu thương chịu khó hết mực. Bà là một người mẹ vĩ đại và tuyệt vời.

Khi thấy một người đàn bà lạ xuất hiện trong nhà mình, tâm trạng của bà thất thường, không yên và luôn tự hỏi là ai. Khi biết được sự tình, bà cũng không lớn tiếng, cũng không xua đuổi. Bà chỉ lặng lẽ như chính cuộc đời của mình như vậy. Bà thương con mình, thương cho người đàn bà lạ kia. Một tình thương sâu thẳm và bao la.

Bà chỉ lo “không biết chúng nó có sống nổi qua ngày không”. Nỗi lòng của người mẹ nặng trĩu âu lo khi cái nghèo dồn dập và cái tình người thì vẫn còn đong đầy.

Thấy con lấy vợ, bà cũng mừng, nhưng bà lại tủi vì “người ta có gặp lúc khó khăn đói khổ này mới lấy con mình, con mình mới có vợ được’. Một sự nghiệt ngã đến đau lòng khiến bà càng yêu thương con tha thiết hơn, và thương thêm người đà bà lạ nghèo khổ, tiêu điều kia.

Bà cụ Tứ còn là một người rất hiểu chuyện, không hề than vãn bất cứ điều gì. Bà chỉ nhẹ nhàng bảo “Vợ chồng chúng mày lo mà làm ăn, rồi trời thương. Ai giàu ba họ, ai khó ba đời bao giờ đâu”. Dù hiện thực nghiệt ngã, cái đói cứ đeo bám nhưng bà vẫn động viên, an ủi hai vợ chồng trẻ. Đó là điều mà không phải người mẹ nào cũng có thể can đảm nghĩ, can đảm động viên con như thế.

Chính tấm lòng này của người mẹ khiến cho Tràng và người vợ mới thêm nhẹ lòng, không bị ràng buộc và khó khăn quá nhiều. Khi đó chúng ta mới thấy được tình người le lói giữa cảnh đời u tối như thế này thật đáng trân trọng biết bao nhiêu. Bà là một người mẹ tuyệt vời, dù cuộc đời này không được tốt đẹp như bà vẫn mong.

Hình ảnh bà cụ Tứ “xăm xăm trong vườn” vào buổi sáng đầu tiên sau khi anh cu Tràng lấy vợ khiến người đọc vỡ òa. Dù chỉ là một hình ảnh nhỏ, rất bình dị thường ngày nhưng lại khiến cho khung cảnh ảm đạm suốt bao ngày qua trở nên thông thoáng, nhẹ nhõm và trong lành hơn. Nói đúng hơn, bà cũng đang vun vén và xây đắp cho hạnh phúc của con mình.

Đặc biệt hình ảnh “nồi cháo cám’ xuất hiện ở bữa cơm đầu tiên Tràng dẫn vợ về không những khiến vợ chồng Tràng nghẹn ứ ở cổ mà  còn khiến người đọc không thể cầm nổi nước mắt. Hóa ra trong cái nghèo đói rình rập như vậy, chỉ một bát cháo “đắng chát” cũng đủ nhen nhóm lòng người như vậy. Thực sự đây là hình ảnh mang tính chất nghệ thuật và có sức ám ảnh lớn. Cũng giống như “bát cháo hành” trong truyện Chí Phèo thì “nồi cháo cám’ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” đều là những hình ảnh neo giữ thật sâu trong tâm trí người đọc.

Tâm trạng và nụ cười niềm nở của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm đó thực sự đã tràn niềm vui, sự ấm áp sang đôi vợ chồng trẻ. Bà còn bảo “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn”. Sự vui vẻ của người mẹ nghèo làm bừng sáng lên không khí tăm tối những ngày qua. Thực sự chỉ tấm lòng của những người mẹ mới có thể khiến cho con cái yên lòng. Anh cụ tràng và thị thực sự là những người hạnh phúc, dù đói nghèo vẫn còn dai dẳng.

Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ bằng những chi tiết rất đời thường nhưng lại khiến cho người đọc có một sự nhìn nhận khác về người nông dân trong hoàn cảnh đất nước đói kém. Bà là người khiến nhiều người khác khâm phục và ngưỡng mộ.

Kim Lân với phong cách viết giản dị, gần gũi với đời sống của nhân dân nên ông được xem là nhà văn của làng quê Việt Nam. Những sáng tác của ông luôn chạm vào trái tim người đọc cảm xúc ấm áp, thân quen nhất. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời giữa bối cảnh đất nước ta đang lầm than, nạn đói hoàng hành. Tác giả đã khắc họa thành công nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ khắc khổ nhưng tràn đầy tình yêu thương.

Bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm, bà chỉ xuất hiện khi anh cu Tràng dẫn vợ vừa nhặt được về nhà. Có lẽ khoảnh khắc này người đọc sẽ bắt đầu nhận ra được người mẹ nghèo này có thái độ, tình cảm như thế nào dành cho con.

Bà cụ Tứ hiện lên là người đàn bà khắc khổ, nghèo đói với cái dáng “lòng khòng”, “khập khiễng bước từ ngoài cổng bước vào”. Với một loạt từ dùng để chỉ hình dáng và cử chỉ của bà như “nhấp nháy mắt”, “lập khập bước đi”, “lễ mễ” đã gợi lên trong lòng người đọc hình ảnh người mẹ già không còn khỏe mạnh và tinh anh nữa. Giữa xóm ngụ cư nghèo đói, giữa sự tan tác, hoang sơ của cảnh vật và con người, hình ảnh người mẹ này hiện lên khiến người đọc không khỏi xót xa.

Mặc dù bà chỉ xuất hiện khi Tràng dẫn vợ về nhà nhưng lại ám ảnh đến người đọc khi đã gấp trang sách lại. Vì Kim lân đã để cho bà xuất hiện với những nét tính cách và tình cảm yêu thương, cảm thông, chịu thương chịu khó hết mực. Bà là một người mẹ vĩ đại và tuyệt vời.

Khi thấy một người đàn bà lạ xuất hiện trong nhà mình, tâm trạng của bà thất thường, không yên và luôn tự hỏi là ai. Khi biết được sự tình, bà cũng không lớn tiếng, cũng không xua đuổi. Bà chỉ lặng lẽ như chính cuộc đời của mình như vậy. Bà thương con mình, thương cho người đàn bà lạ kia. Một tình thương sâu thẳm và bao la.

 Bà chỉ lo “không biết chúng nó có sống nổi qua ngày không”. Nỗi lòng của người mẹ nặng trĩu âu lo khi cái nghèo dồn dập và cái tình người thì vẫn còn đong đầy.

Thấy con lấy vợ, bà cũng mừng, nhưng bà lại tủi vì “người ta có gặp lúc khó khăn đói khổ này mới lấy con mình, con mình mới có vợ được’. Một sự nghiệt ngã đến đau lòng khiến bà càng yêu thương con tha thiết hơn, và thương thêm người đà bà lạ nghèo khổ, tiêu điều kia.

Bà cụ Tứ còn là một người rất hiểu chuyện, không hề than vãn bất cứ điều gì. Bà chỉ nhẹ nhàng bảo “Vợ chồng chúng mày lo mà làm ăn, rồi trời thương. Ai giàu ba họ, ai khó ba đời bao giờ đâu”. Dù hiện thực nghiệt ngã, cái đói cứ đeo bám nhưng bà vẫn động viên, an ủi hai vợ chồng trẻ. Đó là điều mà không phải người mẹ nào cũng có thể can đảm nghĩ, can đảm động viên con như thế.

Chính tấm lòng này của người mẹ khiến cho Tràng và người vợ mới thêm nhẹ lòng, không bị ràng buộc và khó khăn quá nhiều. Khi đó chúng ta mới thấy được tình người le lói giữa cảnh đời u tối như thế này thật đáng trân trọng biết bao nhiêu. Bà là một người mẹ tuyệt vời, dù cuộc đời này không được tốt đẹp như bà vẫn mong.

Hình ảnh bà cụ Tứ “xăm xăm trong vườn” vào buổi sáng đầu tiên sau khi anh cu Tràng lấy vợ khiến người đọc vỡ òa. Dù chỉ là một hình ảnh nhỏ, rất bình dị thường ngày nhưng lại khiến cho khung cảnh ảm đạm suốt bao ngày qua trở nên thông thoáng, nhẹ nhõm và trong lành hơn. Nói đúng hơn, bà cũng đang vun vén và xây đắp cho hạnh phúc của con mình.

Đặc biệt hình ảnh “nồi cháo cám’ xuất hiện ở bữa cơm đầu tiên Tràng dẫn vợ về không những khiến vợ chồng Tràng nghẹn ứ ở cổ mà  còn khiến người đọc không thể cầm nổi nước mắt. Hóa ra trong cái nghèo đói rình rập như vậy, chỉ một bát cháo “đắng chát” cũng đủ nhen nhóm lòng người như vậy. Thực sự đây là hình ảnh mang tính chất nghệ thuật và có sức ám ảnh lớn. Cũng giống như “bát cháo hành” trong truyện Chí Phèo thì “nồi cháo cám’ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” đều là những hình ảnh neo giữ thật sâu trong tâm trí người đọc.

Tâm trạng và nụ cười niềm nở của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm đó thực sự đã tràn niềm vui, sự ấm áp sang đôi vợ chồng trẻ. Bà còn bảo “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn”. Sự vui vẻ của người mẹ nghèo làm bừng sáng lên không khí tăm tối những ngày qua. Thực sự chỉ tấm lòng của những người mẹ mới có thể khiến cho con cái yên lòng. Anh cụ tràng và thị thực sự là những người hạnh phúc, dù đói nghèo vẫn còn dai dẳng.

Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ bằng những chi tiết rất đời thường nhưng lại khiến cho người đọc có một sự nhìn nhận khác về người nông dân trong hoàn cảnh đất nước đói kém. Bà là người khiến nhiều người khác khâm phục và ngưỡng mộ.

17 tháng 10 2016

1.Mở bài
"Mặc dù gặp nhiều đau khổ và bất hạnh, người nông dân trước CMT8 vẫn giữ trọn những phẩm chất tốt đẹp của mình". Đó là điểm sáng trong những sáng tác về người nông dân của các nhà văn trong những năm 1930-1945. Đọc những tác phẩm ấy, người đọc không thể nào quên hình ảnh người nông dân trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" (Tắt đèn) của Ngô Tất Tố phải sống một cuộc sống nghèo khổ cùng cực nhưng vẫn rất mực yêu thương chồng con và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Đó chính lá chị Dậu.

2.Thân bài
a, Hoàn cảnh của chị Dậu thật đáng thương
Bối cảnh của truyện là làng Đông Xá trong không khí ngột ngạt, căng thẳng của những ngày sưu thuế gay gắt nhất. Bọn cường hào, tay sai rầm rộ đi tróc sưu. Gia đình chị Dậu thuộc hạng nghèo khó "nhất nhì trong hạng cùng đinh". Chị phải bán gánh khoai, ổ chó và đứt ruột bán đứa con gái lên 7 tuổi cho vợ chồng Nghị Quế mới đủ nộp suất sưu cho chồng. Nhưng anh Dậu vẫn bị trói ở sân đình vì còn thiếu một suất sưu nữa của người em chồng đã chết từ năm ngoái. Anh Dậu đang bị ốm nặng, bị trói suốt ngày đêm, anh ngất xỉu đi như chết. Bọn cường hào cho tay chân vác anh Dậu rũ rượi như cái xác đem đến trả cho chị Dậu. Đau khổ, tai hoạ chồng chất và đè nặng lên tâm hồn người đàn bà tội nghiệp.
(*) Trong hoàn cảnh đó ta vẫn thấy vẻ đẹp toả sáng từ tâm hồn của chị Dậu
b, chị Dậu là người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương.
Trong cơn nguy kịch, chị Dậu đã lay gọi và tìm mọi cách cứu chữa cho chồng. Hàng xóm đã kéo đến, người an ủi, người cho vay gạo nấu cháo...Cháo chín, chị múc ra bát, lấy quạt quạt cho nguội để chồng "ăn lấy vài húp" vì chồng chị đã "nhịn xuông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì". Trong tiếng trống, tiếng tù và, chị Dậu khẩn khoản tha thiết mời chồng "Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Lời người đàn bà nhà quê mới chồng ăn cháo lúc hoạn nạn chứa đựng biết bao tình yêu thương, an ủi, vỗ về. Cái cử chỉ chị bế cài Tửu ngồi xuống cạnh chồng "cố ý chờ xem chồng ăn có ngon miệng không" đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của người vợ đối với người chồng đang đau ốm, tính mạng đang bị bọn cường hào đe doạ. Tình cảm ấy là hơi thở dịu dàng thức tỉnh sự sống cho anh Dậu. Dường như mỗi cử chỉ, hành động của anh Dậu đều có ánh mắt thấp thỏm, lo lắng của chị Dậu dõi theo. Yêu chồng, chị dám đánh lại bọn tay sai để bảo vệ chồng. Đó là biểu hiện đẹp đẽ nhất của tình yêu thương chồng trong chị. Chị quả là một người mẹ, người vợ giàu tình yêu thương.
(*) Và có lẽ chính sự giàu tình yêu thương ấy của chị của chị mà trong chị luôn tiềm ẩn sức sống mạnh mẽ để khi bọn cai lện sầm sập tiến vào bắt trói anh Dậu chị đã dũng cảm đứng lên bảo vệ chồng.
c, Chị Dậu là người phụ nữ tiềm tàng tinh thần phản kháng
Khi bọn tay sai, người nhà lí trưởng "sầm sập" tiến vào với tay thước, roi song, dây thừng thét trói kẻ thiếu sưu, chị Dậu đã nhẫn nhục chịu đựng, cố van xin tha thiết bằng giọng run run cầu khẩn "Hai ông làm phúc bói với ông lí cho cháu khất". Cách xử sự và xưng hô của chị thể hiện thái độ chịu đựng. Chị có thái độ như vậy là vì chị biết thân phận bé mọn của mình, biết cái tình thế ngặt nghèo của gia đình mình. Trong hoàn cảnh này, chị chỉ mong chúng tha cho anh Dậu, không đánh trói, hành hạ anh. Nhưng tên cai lệ không những không động lòng thương mà lại còn chửi mắng chị thậm tệ. Tên cai lệ chạy sầm sập đến trói anh Dậu, tính mạng người chồng đang bị đe doạ, chị Dậu "xám mặt" vội vàng đỡ lấy tay hắn nhưng vẫn cố van xin thảm thiết "Cháu van ông! Nhà cháu mới tỉnh được một lúc, ônh tha cho". Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, chị Dậu càng nhẫn nhịn, tên cai lệ càng lấn tới. Hắn mỗi lúc lại lồng lên như một con chó điên "bịch luôn vào nhưng chị mấy bịch" rồi "tát vào mặt chị một cái đánh bốp" và nhảy vào trói anh Dậu... Tức là hắn hành động một cách dã man thì mọi sự nhẫn nhục đều có giới hạn. Chị Dậu đã kiên quyết cự lại. Sự cự lại của chị Dậu cũng có một quá trình gồm hai bước. Thoạt đầu, chị cự lại bằng lí lẽ "chồng tôi đâu ốm, các ông không được phép hành hạ". Lời nói đanh thép của chị như một lời cảnh cáo. Thực ra chị không chỉ viện đến pháp luật mà chỉ nói cái lí đương nhiên, cái đạo lí tối thiểu của con người. Lúc này chị đã thay đổi cách xưng hô ngang hàng, nhìn vào mặt đối thủ với thái độ quyết liệt ấy, một chị Dậu dịu dàng đã trở nên mạnh mẽ đáo để. Đến khi tên cai lệ dã thú ấy vẫn không thèm trả lời còn tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu thì chị đã vội đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt :chị nghiến hai hàm răng "mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem". Một cách xưng hô hết sức đanh đá của người phụ nữ bình dân thể hiện một tư thế "đứng trên dối thủ, sẵn sàng đè bẹp đối phương". Rồi chị "túm cổ tên cai lệ, ấn dúi ra cửa... lẳng người nhà lí trưởng ngã nhào ra thềm". Chị vẫn chưa nguôi giận. Với chị, nhà tù thực dân cũng chẳng có thể làm cho chị run sợ nên trước sự can ngăn của chồng chị vẫn chưa nguôi giận "Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình, làm tội mãi thế, tôi không chịu được".
Con giun xéo mãi cũng quằn, chị Dậu cũng vậy, bị áp bức dã man, tính mạng bị đe doạ, chị đã vùng lên đánh trả một cách dũng cảm. Nhà văn Nguyên Tuân đã có một nhận xét rất thú vị "Trên cái tối trời, tối đất của cái xã hội ngày xưa, hiện lên một chân dung lạc quan của chị Dậu...bản chất cuả chị Dậu rất khoẻ, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra...". Ngô Tất Tố rất hả hê khi tả cảnh chị Dậu cho tên cai lệ và người nhà lí trưởng một bài học thích đáng. Ông đã chỉ ra một quy luật trong xã hội "Có áp bức, có đấu tranh"

3. Kết bài
(*)Đoạn trích "Tức nước vỡ bờ rất sống và giàu tính hiện thực. Đoạn văn như một màn bi hài kịch, xung đột diễn ra căng thẳng đầy kịch tính. Chị Dậu được miêu tả rất chân thực, sống động và có sức truyền cảm. Tính cách của chị hiện lên nhất quán với diễn biến tâm lí thật sinh động. Chị Dậu mộc mạc, hiền dịu đầy vị tha, giàu tình yêu thương, sống khiêm nhường biết nhẫn nhục chịu đựng nhưng không hoàn toàn yếu đuối, chỉ biết sợ hãi mà trái lại, chị vẫn có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, một tinh thần phản kháng tiềm tàng.
Như vậy, từ hình ảnh " Cái cò lặn lội bờ sông/gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non" và hình ảnh người phụ nữ trong thơ xưa đến hình ảnh chị Dậu trong "Tắt đèn", ta thấy chân dung người phụ nữ Việt Nam trong văn học đã có một bước phát triển mới về cả tâm hồn lẫn chí khí.