Bằng 1 số tác phẩm văn học, hãy làm sáng tỏ lời nhận định của Mác-xim Gor-ki:"Văn học là nhân học".
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
gây cho ta tình cảm ta chưa có: chúng ta sống ở vùng thôn quê yên bình và hạnh phúc , từ l;úc cha sinh mẹ đẻ tới giờ chúng ta luôn cảm thấy cuộc sống nhipk nhàng trôi và chưa cảm nhận được dư vị của sự trải nghiêm. thế nhưng khi đọc song bài vượt thác của võ quảng, chúng ta được biết đến với một anh hùng nơi sông thác và sự kiên trì , mạnh mẽ dường nào. và cũng từ đó mà chúng ta yêu quý thêm những con người lao động và biết thêm về họ
luyện cho ta tình cảm ta sẵn có: chúng ta lớn lên đã biết tình mẹ thật vĩ đại và cao cả. thế nhưng khi đọc song bài mẹ tôi, chúng ta lại thấy yêu thương hơn người mẹ đã sẵn sàng hi sinh mọi thứ vì chúng ta. hiểu thêm về mẹ. yêu thêm . đó chính là tc mà văn chương bồi đắp cho ta
chị bảo em nè: riêng với bài này em tách 2 ý ra maf cm, lấy ví dụ không nhất thiết phải theo chị nha. chị hơn em một lớp thui nên chị vẫn nhớ kiến thức lớp 7 lắm em à
Văn học hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975 là hiện thực của những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại và công cuộc xây dựng cuộc sống mới đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện thực đó đã tạo nên cho dân tộc Việt Nam một vóc dáng nổi bật: vóc dáng người chiến sĩ luôn trong tư thế chủ động chiến đấu chống kẻ thù, vóc dáng của con người mới xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hoà quyện tạo nên vẻ đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã làm nên hơi thở, sức sống của văn học thời kì 1945 - 1975.
Hình ảnh người lính trong kháng chiến luôn là một đề tài bất tận của thơ ca kháng chiến. Ở mỗi một thời kì, họ lại hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau, có lúc thì sôi nổi, trẻ trung, khi thì hào hoa, lãng mạn. Vậy những người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là những người như thế nào? Họ là những con người ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi không kể già trẻ, trai gái, giàu nghèo. Họ nổi bật với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược vì đất nước, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan sâu sắc. Đó là những người nông dân mặc áo lính thể hiện qua bài thơ “ đồng chí “ của nhà thơ Chính Hữu:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” ám chỉ những vùng đất khô cằn, bị nhiễm phèn, nhiễm mặn quanh năm, rất khó canh tác. Đấy đều là những vùng quê nghèo đói quanh năm. Những người lính trong chiến trường cũng chính là người con của mảnh đất quê hương đấy, họ đều là những người nông dân cần cù, lam lũ, chân lấm tay bùn, là những chiến sĩ Vệ quốc quân, là những nông dân ngày đầu mặc áo lính mang đậm nét duyên quê mộc mạc, đậm đà chân tình nhưng với cả lòng quyết tâm và tự nguyện. Nhưng trong họ tiềm ẩn một sức mạnh phi thường, chí khí anh hùng, một niềm tin, một tấm lòng tươi trẻ. Ra đi, các anh bỏ lại sau lưng tất cả những gì yêu thương nhất, bỏ lại sau lưng hình ảnh người mẹ già, vợ hiền và em thơ; bỏ lại “giếng nước, sân đình, cây đa bến cũ” và những mối tình hò hẹn.
Nếu tác giả Chính Hữu đã đem đến cho ta hình ảnh của những người nông dân Việt Nam cần cù chăm chỉ, chịu thương, chịu khó thì tác giả Phạm Tiến Duật đem đến cho ta hình ảnh những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà trường. Mà ở họ có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không có rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn… Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã có, đó là trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không nguyên vẹn ấy băng về phía trước, nơi miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng mình qua trận đấu đố chính là sức mạnh của trái tim người lính.
Cùng với chủ đề ngợi ca vẻ đẹp người chiến sĩ, nhưng khác với nhà thơ Phạm Tiến Duật, nhà văn Lê Minh Khuê trong “Những ngôi sao xa xôi” đã đi tìm và khai thác vẻ đẹp ấy qua hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong. Đó là những chuyện về những cô gái thanh niên xung phong vừa kiên cường dũng cảm trong chiến đấu vừa hồn nhiên, mơ mộng thật đáng yêu, đáng quý. Họ đóng quân trong một cái hang giữa “túi bom, chảo lửa” trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc hàng ngày của họ là đếm bom, rồi lao ra trọng điểm sau những trận bom để đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí bom rơi và phá những quả bom chưa nổ. Một khối lượng công việc vừa đồ sộ vừa nguy hiểm. Cái chết rình rập họ từng phút, từng giờ. Họ luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, dù chỉ có ba người (lại là ba phụ nữ); họ phân công nhau phá bằng hết những quả bom chưa nổ mà không cần đến sự trợ giúp của đơn vị mà “như mọi lần chúng tôi sẽ giải quyết hết.”
Trong cuộc chiến đấu cam go, ác liệt đó người dân Việt Nam không chỉ những người trai tráng khỏe mạnh mà ngay cả những người phụ nữ, những người già cũng đứng lên đấu tranh chống giặc. Mà đặc biệt hơn nữa, ngay cả những đứa trẻ Việt Nam, khi đất nước có chiến tranh cũng mang lòng căm thù và quyết tâm giúp sức cho cách mạng. Và hình ảnh của những chú bé liên lạc viên này được nhà thơ Tố Hữu tái hiện sống động qua bài thơ “Lượm”.
“Chú bé loắt choắt
Cái sắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”
Dù tuổi đời còn nhỏ nhưng những chú bé này đã có những nhận thức sâu sắc về thực trạng của đất nước mình, cũng từ đó mà mang quyết tâm đấu tranh, góp sức vào công cuộc giải phóng đất nước, quê hương. Vì còn nhỏ nên những chú bé này không thể cầm súng ra trận địa đấu tranh trực tiếp với quân giặc mà làm những công việc đơn giản nhưng cũng không kém phần nguy hiểm, đó là truyền “thư đề thượng khẩn”, truyền báo tin tức cho quân ta. Đây là công việc rất nguy hiểm bởi việc bảo mật của thông tin cũng như việc phải đương đầu với sự giám sát của kẻ thù. Ấy vậy mà trong Lượm lại hiện lên như những người chiến sĩ thực thụ, dù xung quanh là mưa bom bão đạn, mạng sống có thể mất bất cứ lúc nào nhưng cậu bé không hề sợ, cậu bé không sợ chết mà vì thư cậu bé chỉ sợ những thông tin mật rất gấp rút không thể đưa đến kịp vì vậy mà cậu bé bất chấp lao vào mưa bom, lửa đạn “Sợ chi hiểm nghèo”.
Ngoài hình ảnh người lính thì song song đồng hành với họ là những con người lao động mới. Họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ cuộc sống mới, họ thầm lặng lao động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước. Điều đó thể hiện rõ nét nhất trong tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” và “Lăng lẽ sapa” của hai tác giả nổi tiếng là Huy Cận và Nguyễn Thành Long.
Đối với bài Đoàn thuyền đánh cá, tác giả Huy cận đã khắc họa thành công hình ảnh tinh thần lao động phấn khởi, hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hương. Đó là những người ngư dân trong cảnh lao động tập thể và công việc hàng ngày của họ là khi màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình là ra khơi đánh cá. Họ ra khơi với niềm hân hoan trong câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao động và hòa nhập với thiên nhiên bao la và trở thành hình ảnh sáng đẹp:
Mặt trời xuống biên như hòn lừa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng. Với tinh thần lao động hang hái, lạc quan, họ làm việc nhiệt tình, hăng say trong câu hát, mỗi tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Qua mỗi câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả sức lực và trí tụê của mình
Đồng hành với bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” thì bài “ Lặng lẽ Sa Pa “ cũng mang nhịp thở của người lao động mới với cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say mê, miệt mài trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết mình cho đất nước. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp. Thể hiện qua nhân vật anh thanh niên và một số nhân vật khác, tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động mới đang ngày đêm âm thầm công hiến cho đất nước. Đó là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ. Lí tưởng sống của họ là vì nhân dân, vì đất nước. Chính từ suy nghĩ: Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? mà anh đã vượt lên nỗi thèm người để gắn bó với đỉnh Yên Son trong công việc thầm lặng. Trong cái lặng im của Sa Pa ấy, không phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả thế giới những người làm việc và lo nghĩ cho đất nước qua lời anh kê như: ông kĩ sư vườn rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét… Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong lao động cống hiến.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và thời đại. Ở ngoài tiền tuyến khói lửa là hình ảnh của những người lính dũng cảm, kiên cường. Nơi hậu phương là những người lao động bình dị mang nhịp thở của thời đại mới. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh của con người và dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Các tác giả văn học thời kì này họ đồng thời vừa là nhà văn, nhà thơ, vừa là người lính, người chiến sĩ, người lao động cầm bút để ngợi ca về con người dân tộc Việt với niềm say mê và tự hào. Họ đã làm nên vẻ đẹp và sức sống mới cho văn học Việt Nam.
1. Mở bài:
- Hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975 là hiện thực của những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại và công cuộc xây dựng cuộc sống mới đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Hiện thực đó đã tạo nên cho dân tộc Việt Nam một vóc dáng nổi bật: vóc dáng người chiến sĩ luôn trong tư thế chủ động chiến đấu chống kẻ thù, vóc dáng của con người mới xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hoà quyện tạo nên vẻ đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã làm nên hơi thở, sức sống của văn học thời kì 1945 - 1975.
2, Thân bài: Chứng minh
+. “Hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”: họ là những con người ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và nổi bật với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan.:
- Họ là những con người ở mọi tầng lớp, lứa tuổi như: người nông dân mặc áo lính (“Đồng chí” của Chính Hữu), những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà trường (“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật), là em bé liên lạc (“Lượm” của Tố Hữu)...
- Họ là những người lính, người chiến sĩ có lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. (dẫn chứng)
- Hoàn cảnh sống chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ song họ luôn có tinh thần lạc quan và tình đồng chí, đồng đội cao đẹp... (dẫn chứng)
+. “Hình ảnh người lao động mới”: họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ cuộc sống mới, họ lao động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước:
- Người lao động trong "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy cận mang nhịp thở tươi vui, hăm hở, hoà mình cùng trời cao biển rộng: họ ra khơi với niềm hân hoan trong câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao động. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả sức lực và trí tụê của mình.(Dẫn chứng).
- "Lặng lẽ SaPa" của Nguyễn Thành Long mang nhịp thở của người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say mê, miệt mài trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết mình cho đất nước. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp (Dẫn chứng)
3. Kết bài:
- Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và thời đại. Ở ngoài tiền tuyến khói lửa là hình ảnh của những người lính dũng cảm, kiên cường. Nơi hậu phương là những người lao động bình dị mang nhịp thở của thời đại mới.
- Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh của con người và dân tộc Việt Nam thế kỉ XX.
- Các tác giả văn học thời kì này họ đồng thời vừa là nhà văn, nhà thơ, vừa là người lính, người chiến sĩ, người lao động cầm bút để ngợi ca về con người dân tộc Việt với niềm say mê và tự hào. Họ đã làm nên vẻ đẹp và sức sống mới cho văn học Việt Nam.
Văn bản Vợ nhặt:
+ Giá trị nhận thức: tái hiện chân thực thời kì đau thương của dân tộc khi chịu hai ách áp bức, bóc lột của thực dân và phát xít. Nạn đói năm 1945 cướp đi mạng sống của nhiều người.
+ Giá trị thẩm mĩ: khơi gợi niềm đồng cảm, thương cảm của người đọc đối với thân phận con người nghèo khó trong thời kì đất nước bị ngoại xâm.
+ Giá trị giáo dục: giáo dục lòng yêu nước, lòng thương người.
Trải qua lịch sử hình thành và phát triển của loài người, kho tàng tri thức được tích lũy là vô cùng vô tận. Muốn tìm hiểu hết những tinh hoa đó, có rất nhiều phương pháp khác nhau. Song phương pháp hiệu quả nhất là đọc sách. Sách có vai trò vô cùng quan trọng, như nhà văn M. Gorki nhận định: “Sách mở ra trước mắt tối những chân trời mới”.
Sách là một dạng văn bản hay tài liệu có ghi lại những kiến thức tri thức liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Con người luôn luôn có ý thức học tập, tìm hiểu khám phá thế giới tự nhiên và xã hội. Những kinh nghiệm, tri thức mà thế hệ trước tìm được sẽ được ghi chép, lưu giữ lại để truyền cho muôn đời con cháu mai sau. Sách ra đời từ đó và trở thành con đường đưa con người đến với tri thức. Có rất nhiều loại sách khác nhau. Tuỳ vào loại tri thức con người lưu giữ mà sách có nhiều loại: sách khoa học, sách nghệ thuật, sách đời sống,…
Vì sao M.Gooky nói "Sách mở ra trước mắt tối những chân trời mới”? Sách trước hết là nơi ghi chép lưu trữ kho tàng tri thức của nhân loại.
Sách sẽ cung cấp tri thức về mọi lĩnh vực cho con người, từ mọi khu vực, từ vũ trụ xa vời đến lòng đất sâu thẳm. Sách lịch sử giống như cỗ máy thần kì giúp chúng ta vượt thời gian quay trở lại quá khứ hào hùng đã qua. Sách địa lí giống như cánh cửa thần kỳ giúp ta vượt thời gian, đưa chúng ta vi vu đến những vùng đất xa xôi, bay đến những vì sao, thám hiểm trong lòng biển. Kì diệu hơn, ta còn có thể thâm nhập vào thế giới vi mô của sự vật hiện tượng để biết về nguồn gốc chung của cả vũ trụ…
Mỗi trang sách không chỉ chứa đựng tri thức cần tiếp thu nâng cao vốn hiểu biết của com người mà qua đó sách còn giúp chúng ta có thể giao lưu với thế giới bên ngoài. Sách khoa học đem đến cho chúng ta những tri thức bổ ích song khi đọc sách, đặc biệt là sách văn học xã hội, người đọc cũng bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Giống như nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm sẵn có, tâm hồn nhỏ bé vì thể mà trở nên rộng lớn hơn gấp trăm nghìn lần…” tác phẩm văn học có sức mạnh lan tỏa và giáo dục vô cùng cao. Nó gây cho ta những tình cảm ta chưa có, và bồi đắp cho ta những tình cảm ta sẵn có. Sách lịch sử địa lý cũng có thể khiến người đọc thêm yêu quý và trân trọng lịch sử dân tộc, tự hào về vẻ đẹp Tổ quốc ta.
Đó là những triết lí cuộc sống mà chúng ta tìm được khi đọc một câu chuyện, một lời tâm sự trên trang sách. Khi đọc sách ta có thể nhận ra cuộc sống muôn màu muôn vẻ, và chứa trong đó nhiều giá trị cao đẹp, giúp ta nhìn nhận chính mình cũng như người xung quanh chính xác hơn. Từ đó có thể nói, “chân trời mới” trong câu nói của Gooky được hiểu là những chân trời tri thức mới, những chân trời cảm xúc mới.
Sách có những tác dụng to lớn như vậy, vậy làm thế nào để đọc sách hiệu quả và hợp lí nhất? Trước tiên chúng ta cần lựa chọn thờ điểm thuận lợi để đọc sách 1 cách tốt nhất. Hãy đọc sách ngay khi còn trẻ vì khi đó trí nhớ và khả năng tiếp thu tốt hơn. Tri thức cũng có nhiều loại khác nhau, tri thức phù hợp mới thực sự có giá trị. Khi đọc sách cũng cần có sự lựa chọn cẩn thận tránh những loại sách chứa đựng giá trị tiêu cực, không phù hợp cho quá trình nâng cao vốn hiểu biết của bản thân.
Cuộc sống thay đổi, xã hội ngày càng đi lên, di sản tinh thần của nhân loại càng phong phú thì lượng kiến thức tích lũy trong sách vở ngày càng đồ sợ, việc đọc sách ngày càng trở nên quan trọng. Sách thực sự mở ra trước mắt chúng ta những chân trời mới. Chính vì thế hãy luyện cho mình thói quen đọc sách để phù hợp với bước phát triển của thời đại.
TRÊN MẠNG NHÉ
mình làm vầy dc ko m.n
câu 1: Trong cuộc đời con người ai chẳng mơ ước sự thành công nhưng con đường đến thành công đâu phải là thảm hoa hồng rực rỡ. Để đạt được điều đó cần phải có một sự cố gắng, nỗ lực khẳng định mình nhưng đồng thời cũng phải biết chế ngự bản thân mình trước mọi cám dỗ của cuộc sống. Tôi rất thích một câu nói “ Không nỗ lực khẳng định mình thì khó thành công, nhưng không tỉnh táo chế ngự mình thì dễ vấp ngã”.
Vậy những nỗ lực khẳng định mình là gì ? Đó chính là ý chí của con người trong cuộc sống. Nếu muốn thành công trước hết con người phải có một ý chí, một quyết tâm cao độ trước mục tiêu của mình. Nếu không có ý chí, con người sẽ chẳng thể làm được điều gì. Nhưng nếu chỉ có ý chí thôi thì cũng chưa đủ. Con người còn cần phải có một lý trí tỉnh táo, sáng suốt để chế ngự bản thân mình. Bởi cuộc sống vô vàn những cạm bẫy, những cám dỗ. Nếu không tỉnh táo con người dễ bị vấp ngã, dễ bị thất bại.
Tôi đã từng được nghe câu chuyện về một cậu bé nghèo khổ với bài văn viết về mơ ước của mình. Cậu đã nhận điểm kém cộng lời phê của thầy giáo về ước mơ viển vông, thiếu thực tế khi cậu muốn trở thành một chủ trang trại nuôi cừu. Với ý chí quyết tâm của mình, cậu đã biến ước mơ đó thành sự thật. Cậu đã trở thành một chủ trang trại rộng lớn với những đồng cỏ, những đàn cừu của mình trong sự ngạc nhiên, thán phục của người thầy và mọi người. Ý chí của cậu bé nghèo khổ đó thật khiến chúng ta khâm phục . Hay câu chuyện về thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí – bị liệt cả hai tay nhưng vẫn quyết tâm nỗ lực đến trường. Nguyễn Ngọc Kí không chỉ viết được rất đẹp bằng đôi chân mà còn làm được rất nhiều việc có ích khác trong cuộc sống. Nếu không có ý chí làm sao Nguyễn Ngọc Kí có thể làm được điều đó? Trong cuộc sống còn biết bao những tấm gương về ý chí khiến chúng ta phải cảm phục như những bạn học sinh nghèo đã vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của mình để học tập tốt. Nhiều bạn đã thi đỗ vào các trường đại học, thậm chí trở thành thủ khoa…Thật đáng ngưỡng mộ!
Nhưng thực tế cũng cho thấy con người nếu không tỉnh táo chế ngự bản thân thì rất dễ vấp ngã. Đã có bao nhiêu người chỉ vì một phút thiếu suy nghĩ đã phải trả những cái giá quá đắt cho cuộc đời. Những bạn trẻ lỡ đi vào con đường nghiện ngập, game hay ma túy, rượu chè. Những hành động khiến cho con người phải suốt đời sống trong dày vò tội lỗi. Tất cả đều bắt đầu từ việc không tỉnh táo chế ngự bản thân. Con người luôn phải cố gắng để khẳng định mình nhưng sự khẳng định đó phải phù hợp với các chuẩn mực về đạo đức, văn hóa và pháp luật của xã hội chứ không phải là sự khẳng định mình bằng mọi giá. Việc cố gắng khẳng định mình là một nhu cầu của con người, nhất là con người trong đời sống hiện đại. Nếu không tự khẳng định mình bạn sẽ chẳng bao giờ thành công. Nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta hãy hoàn thiện nhân cách của mình bằng một ý chí mạnh mẽ và cả một lí trí sáng suốt tỉnh táo.
Câu nói: Không nỗ lực khẳng định mình thì khó thành công, nhưng không tỉnh táo chế ngự mình thì dễ vấp ngã quả là một lời khuyên hữu ích cho mỗi chúng ta nhất là với thế hệ trẻ- Những con người đang cố gắng nỗ lực khẳng định mình nhưng cũng còn rất bồng bột thiếu lí trí. Hãy rèn luyện cho mình một ý chí kiên cường, mạnh mẽ để sẵn sàng đối mặt với những thử thách của cuộc sống nhưng cũng cần phải có một lý trí tỉnh táo để làm chủ bản thân mình trong mọi hoàn cảnh. Nếu bạn thực sự đã có một ý chí mạnh mẽ và một lý trí sáng suốt thì chắc chắn con đường phía trước của bạn dù thế nào đi chăng nữa tôi tin bạn cũng sẽ thành công!
câu 2 mình ko bik làm, mong mấy bạn giúp đỡ!!!! cần gấp
tham khảo
Nói tới sách là nói tới trí khôn của loài người. Bởi sách là nơi chứa những thành tựu văn minh mà hàng bao thế hệ tích luỹ truyền lại cho mai sau. Từ trải nghiệm của bản thân ham học hỏi, M. Goóc-ki đã có một tổng kết như một chân lý về việc trau, dồi tri thức: “Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới”.
Câu nói đã hàm chứa một ý nghĩa phong phú và một chân lý, một lời khuyên. Từ lâu con người đã biết sự kì diệu của sách. Đó là cái thần kì trong những cái thần kì mà nhân loại đã sáng tạo nên. Sách là cái cần có để con người lưu trữ và truyền lại cho người khác, cho thế hệ khác, những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh, những khám phá về vũ trụ và con người, cả những ý nghĩ, những quan niệm, những mong muốn về cuộc sống cần gửi đến cho mọi người và trao gửi đến đời sau. Sách, đó là kho tàng chứa đựng những hiểu biết về con người đã được khám phá, chọn lọc, thử thách, tổng hợp. Nó cũng là nơi kết tinh những tư tưởng tiên tiến nhất của các thời đại, những hoài bão mạnh mẽ nhất, những tình cảm tha thiết nhất của con người. Chỉ có những gì mà con người cảm thấy bức xúc cần nói lên, cần truyền lại, mới đi vào sách.
Tác động của sách không hề bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Con người ngày nay vẫn không hề giảm sút hứng thú tìm lại những trang sách đã có hàng mấy nghìn năm nay, từ những hình vẽ bí hiểm trên những phiến đất sét, những chữ cái từ lâu đã trở nên lạ lùng trên các tấm da cừu… cho đến hôm nay, những cuốn sách được in hàng loạt bằng những máy in điện tử hiện đại. Một người sống ở một làng hẻo lánh ở châu Á cũng có thể đọc được của một người viết từ một đất nước xa xôi ở châu Mĩ. Thật có thể nói rằng: có sách các thế kỉ và các dân tộc xích lại gần nhau. Sách đưa đến cho người đọc những hiểu biết mới mẻ về thế giới xung quanh, về vũ trụ bao la, về những đất nước và những dân tộc xa xôi. Những quyển sách khoa học có thể giúp người đọc khám phá ra vũ trụ vô tận với những quy luật của nó, hiểu được trái đất tròn trên mình nó có bao nhiêu đất nước khác nhau với những thiên nhiên khác nhau. Những quyển sách xã hội lại giúp ta hiểu biết về đời sống con người trên các phần đất khác nhau đó với những đặc điểm về kinh tế, lịch sử, văn hoá, những truyền thống, những khát vọng. Sách, đặc biệt là những cuốn sách văn học giúp ta hiểu biết về đời sống bên trong của con người, qua các thời kỳ khác nhau, ở những dân tộc khác nhau, những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, những khát vọng và đấu tranh của họ.
Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của con người và phải làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời thực sự. Sách mở rộng những chân trời ước mơ và khát vọng.
Đã từng có những cuốn sách không chỉ “mở rộng những chân trời mới” cho một người, “trăm người, triệu người, mà còn cho cả nhân loại. Những trang sách của Brunô, Galilê về Trái Đất và Thái Dương hệ đã mở ra cho loài người một thời kỳ mới trên con đường chinh phục các vì sao trên thiên hà. Những trang sách của Đacuyn về các giống loài không chỉ giúp con người hiểu rõ về các giống loài sinh vật mà còn hiểu rõ hơn về chính con người. Sách của Điđơrô, Môngtexkiơ rồi của Mác, Ăngghen… thực sự đã giúp con người triển khai những cuộc cách mạng to lớn. Đọc Bandắc ta hiểu về thế giới tư bản với sức mạnh lạnh lùng của đồng tiền, đọc thơ Tago, thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, ta hiểu đời sống và tâm hồn của cả các dân tộc. Đọc sách viết về Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát… ta hiểu xưa kia cha ông ta từng đau khổ và mơ ước những gì… Thật không sao kể hết “những chân trời” mà những trang sách đã mở rộng ra trước mắt ta. Có thể nói một cách tóm tắt rằng: lợi ích của sách là vô tận. Ta đồng ý với lời nhận xét của M. Gorki cũng là tiếp nhận lời khuyên bao hàm chứa trong câu nói ấy: Hãy đọc sách, cố gắng đọc sách càng nhiều càng tốt.
Tuy nhiên, chẳng lẽ đó là một lời khuyên vô điều kiện? Ngẫm cho kỹ, ta vẫn thấy một khoảng trống cần cân nhắc trong lời khuyên ấy. Vì sao? Vì không phải mọi quyển sách đều là “nguồn kiến thức”, là nơi dẫn chúng ta đi vào con đường đúng đắn. Thế nào là sách tốt? Đó là những cuốn sách phản ánh chính xác quy luật tự nhiên và đời sống xã hội. Chúng giúp con người hiểu rõ về số phận để có ý thức đúng về nghĩa vụ của mình trong đời sống. Một cuốn sách tốt phải khiến cho mọi người thêm tự hào về mình, thêm vững tin ở cuộc sống để chiến đấu cho cuộc sống mỗi ngày một tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Nó phải khiến cho tâm hồn con người trở nên phong phú hơn, độ lượng hơn, trong sáng hơn.
Còn thế nào là sách xấu? Đó là những cuốn sách xuyên tạc đời sống đưa đến cho người đọc những kiến thức dối trá về thế giới xung quanh. Chúng đề cao dân tộc này mà bôi nhọ dân tộc kia, chúng gây thù hằn và ngờ vực giữa các dân tộc, đề cao bạo lực và chiến tranh. Đọc những cuốn sách như thế, người đọc không những không tăng thêm hiểu biết mà còn trở nên dốt nát, ngu muội hơn. Đọc những cuốn sách như thế, tâm hồn người đọc không những không hề mở rộng mà còn thêm khô cằn.
Sách tốt được coi như là một thứ thuốc bồi dưỡng cực kỳ công hiệu. Ngược lại, sách xấu như là một thứ thuốc cực kì nguy hiểm. Không còn sách, nền văn minh nhân loại cũng sẽ không còn. Vì thế: “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống” như M. Gorki đã nói: “Sách là một phần quan trọng và tất yếu của cuộc sống”. Không có nó, thì văn minh nhân loại rất khó được lưu giữ trường cửu với thời gian.
“Hàng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường…”, những câu văn ấy của Thanh Tịnh đã xuất hiện trên văn đàn Việt Nam hơn sáu mươi năm rồi! Thế nhưng “Tôi đi học” vẫn là một trong những áng văn gợi cảm, trong trẻo đầy chất thơ của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam. Không những thế, tác phẩm còn in đậm dấu ấn của Thanh Tịnh – một phong cách trữ tình nhẹ nhàng, nhiều mơ mộng và trong sáng. Dòng cảm xúc của nhân vật tôi trong truyện vẫn ắp đầy trong tâm trí ta những nét thơ dại đáng yêu của trẻ thơ trong buổi đầu đến lớp. Trong chúng ta ai cũng đã từng trải qua ngày tháng đầu tiên của tuổi học trò. Với Thanh Tịnh, trường làng Mỹ Lí là một mảng ký ức nhiều lần từng trở đi trở lại trong những trang viết của ông. Câu chuyện “tôi đi học” rất đơn giản, nhưng làm xúc động tất cả những ai từng cắp sách đến trường. Giọng kể chuyện bằng lối xưng hô trực tiếp “tôi” của nhà văn tạo cảm giác gần gũi chân thực, như một bản tự thuật tâm trạng mà dường như mỗi người chúng ta đều nhận ra mình trong đó. Nhà văn đã dẫn dắt chúng ta vào không gian êm đềm của mùa thu, trong khung cảnh một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, để trở về trên con đường làng dài và hẹp, để được sống lại cảm giác của một cậu bé ngây thơ nép mình bên mẹ, chập chững những bước chân đầu tiên đến trường. Cảm nhận về sự thay đổi không gian đã khắc ghi đậm nét, bởi chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học. Chắc chắn, đó cũng là cảm giác của tất cả những ai đã, đang và từng đi học. Hình ảnh ấy thật gần gũi với chúng ta, giống như lời một câu hát ta đã từng quen thuộc “hôm nay em đến trường, mẹ dắt tay từng bước” (lời bài hát Đi học của Minh Chính - Bùi Đình Thảo ). Cảm giác của cậu bé như một con chim non vừa rời tổ, đang ngập ngừng những sải cánh đầu tiên, có chút chơi vơi nhưng thích thú. Thật thú vị biết bao khi ta cùng chia sẻ khoảnh khắc được cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn của cậu bé. Cảm giác ấy thực ra đã bắt đầu từ sự thay đổi đầu tiên mà cậu bé rất hãnh diện vì đi học “oai” hơn nhiều với những trò thả diều hay ra đồng nô đùa, dù rằng cậu vẫn có thể rất thèm được như thằng Quý, thằng Sơn để được tự do bay nhảy. Bởi lẽ đi học là được tiếp xúc với cả một thế giới những điều mới lạ: quần áo mới, sách vở mới, thậm chí oai hơn là được cầm …bút thước mà không để lộ vẻ khó khăn gì hết. Bởi chưa là người thạo nên cậu bé phải ganh tị và thèm muốn được như chúng bạn. Trường học quả là một thế giới tôn nghiêm khiến cho cậu bé phải lo sợ vẩn vơ khi ngắm nhìn và bước chân vào cái nơi vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hoà Ấp . Cái – đình – làng là nơi chỉ dành cho quan viên chức sắc, những người lớn mới được vào. Trường Mỹ Lí có lẽ chỉ dành cho người thạo, còn một cậu bé bước vào sẽ bị choáng ngợp trước vẻ oai nghiêm của nó, nên cảm giác hồi hộp là điều không tránh khỏi. Cảm giác được thấy mình trở nên quan trọng hơn cũng khiến cậu trở nên lúng túng. Không phải chỉ có cậu, mà đó cũng là tâm trạng chung của các cậu trò nhỏ: “Họ như con chim non đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ.”. Thật thú vị khi ta được biết cảm giác thèm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ. Có lẽ khi nhớ lại ngày đầu đi học ấy, nhà văn vẫn chưa hề quên những bước chân run run buổi đầu đời, như lần đầu tiên khám phá ra một thế giới lạ: cái gì cũng to, đẹp và trang trọng. Có lẽ trong đời cậu bé, chưa có lúc nào được tiếp xúc với nhiều người lạ đến thế. Nhất là lại có một ông đốc trang nghiêm nhận học sinh vào lớp. Trong tâm trí của cậu cũng như bạn bè đồng trang lứa, đó là thời khắc hết sức trịnh trọng, khiến tim như ngừng đập, quên cả sự hiện diện của người thân và “tự nhiên giật mình và lúng túng” khi được gọi đến tên. Dẫu cho ông đốc trường Mỹ Lí đã đón các cậu bằng lời nói sẽ, bằng cặp mắt hiền từ và cảm động thì cũng không đủ giúp các cậu vượt qua phút hồi hộp và căng thẳng. Đoạn văn tái hiện không khí ấy của Thanh Tịnh cũng không giấu được nụ cười hóm hỉnh với kỷ niệm đầu đời đáng nhớ, sau lời dặn của thầy đốc “các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có một tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại”. Những dòng cảm xúc khó diễn tả đã được nhà văn thuật lại một cách sinh động khiến cho mỗi một ai khi đã lớn khôn hơn đọc lại không khỏi bật cười trước những tiếng khóc của các cậu bé lần đầu tiên chính thức không còn được ở bên cạnh người thân, bước vào một nơi lạ lùng mới mẻ như trường học: “Không giữ được chéo áo hay cánh tay người thân, vài ba cậu đã từ từ buớc lên đứng dưới hiên lớp […]Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ”. Nhưng cũng rất nhanh chóng, nỗi sợ hãi ban đầu qua đi khi cậu bé được chính thức bước vào trong lớp học. Cặp mắt tò mò cảm nhận một thế giới mới mà cậu bé bây giờ thấy lạ lạ và hay hay, để rồi sau đó tự nhiên lạm nhận là vật của riêng mình. Hoá ra đi học cũng không đáng sợ để cho cậu bé nhanh chóng nguôi ngoai cảm giác chưa bao giờ tôi thấy xa mẹ tôi như lần này. Trường làng Mỹ Lí cũng giống như đồng làng Lê Xá mà thôi, cũng có những người bạn tí hon. Cảm giác rất tự nhiên ấy chính là vì cậu bé lại được hoà vào thế giới của riêng những cậu học trò, vẫn được có những phút ước ao riêng tư với niềm vui thơ bé. Đoạn văn kết lại tác phẩm thật đẹp trong hình ảnh liên tưởng : “Một con chim con liệng đến đứng bên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao”. Cánh chim của đồng nội đã đến với lớp học để làm sống lại kỷ niệm những hôm đi chơi suốt cả ngày, để lại trở về bao hình ảnh quen thuộc của cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm. Con chim con ấy cũng chính là hình ảnh cậu bé buổi đầu đến lớp rụt rè để một mai sẽ được bay cao vào khung trời cao rộng. Nhưng trước mắt cậu bé giờ đây là phấn trắng, bảng đen và nét chữ của thầy, để cậu lại nghiêm chỉnh lần đầu trong đời, thể hiện tư cách cậu học trò ngoan: “Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm nhẩm đánh vần đọc: Bài viết tập: Tôi đi học”. Một trang vở mới sẽ in những nét chữ đầu tiên đầy hứa hẹn cho một tương lai đang mở ra với những bé thơ. Ta nhận ra trong mỗi lời văn của Thanh Tịnh một sự trìu mến đặc biệt dành cho những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật “tôi”. Bởi lẽ, đó chính là kỷ niệm đầu đời của nhà văn ,gắn với thế giới học trò mở ra bao ước vọng. Giọng văn nhẹ nhàng, hình ảnh khắc họa còn tươi rói bao nhiêu ký ức đầu đời đã làm nên chất thơ lan tỏa trong toàn bộ truyện ngắn. Truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh còn đọng mãi trong ta kỷ niệm đầu đời trong sáng hồn nhiên, ghi lại khoảnh khắc thật đẹp trong tâm hồn tuổi thơ. Những trang văn tinh tế, giàu sức biểu cảm sẽ còn làm biết bao thế
Mác-xim Go-rơ-ki (1868 – 1936) là nhà văn hiệu thực xuất sắc của nước Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tên thật của ông là A-lếc-xây Pê-scôp, gọi thân mật là A-li-ô-sa. Ông sinh trưởng ở thành phố Ni-giơ- ni Nô-vơ-gô-rôt (sau có thời đổi tên là thành phố Go-rơ-ki), trong một gia đình lao động nghèo, bố làm nghề thợ mộc. Chú bé A-li-ô-sa trải qua tuổi ấu thơ nhiều cay đắng, tủi nhục, phải tự lực kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau khi mới mười một tuổi.
Nhà văn sáng tác rất nhiều, gồm các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch… Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Người mẹ (1906-1907), bộ ba tiểu thuyết tự thuật Thời thơ ấu (1913-1914), Kiếm sống (1915-1916) Những trường đại học của tôi (1923)…
Thời thơ ấu là cuốn đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết tự thuật. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất (tôi). Tác giả tự kể chuyện đời mình. Mở đầu tác phẩm là chuyện bố mất, khi A-li-ô-sa mới ba tuổi. Chú bé về ở với ông bà ngoại vì mẹ đi lấy chồng khác. A-li-ô-sa sống những năm tháng tuổi thơ héo hắt, sớm phải chứng kiến trong gia đình những cảnh dời nhức nhối. Ông ngoại Va-xi-li Ca-si-rin là người khó tính, tàn nhẫn, hay đe doạ và đối xử với cháu bằng roi vọt. Hai người cậu thì luôn chửi bới và đánh nhau vì tranh chấp gia tài. Lão đại tá góa vợ ốp-xi-an-ni-cop hàng xóm thì hách dịch, coi khinh những người thuộc tầng lớp dưới… Nhưng A-li-ô-sa cũng gặp những người tốt bụng. Chú được sống trong sự che chở và tình thương yêu của bà ngoại A-cu-li-na I-va-nôp-na. Bà thường kể chuyện cổ tích cho cháu nghe, khơi dậy trong tâm hồn trẻ thơ những tình cảm tốt đẹp. Bác thợ Xư-ga-nôc có lần đỡ đòn cho A-li-ô-sa nên cả cánh tay bị bầm tím. Những đứa trẻ vừa tội nghiệp vừa đáng yêu con của đại tá Ôp-xi-an-ni-côp rất mến A-li-ô-sa… Tác phẩm kết thúc bằng sự kiện mẹ cậu bé qua đời, lúc cậu mới lên mười.
Bài văn này trích ở chương IX của tác phẩm Thời thơ ấu. Nhà văn thuật lại tình bạn thân thiết nảy sinh giữa cậu bé A-li-ô-sa với mấy đứa trẻ hàng xóm mồ côi mẹ, sống thiếu tình thương, bất chấp những cản trở trong quan hệ giai cấp và tầng lớp xã hội lúc bấy giờ.
Ông bà ngoại của A-li-ô-sa là hàng xóm với đại tá Ôp-xi-an-ni-cốp. Hai nhà thuộc hai thành phần xã hội khác nhau. Một bên là dân thường, một bên là quan chức giàu sang. Vì thế, viên đại tá không cho mấy đứa con của mình chơi với A-li-ô-sa. Do A-li-ô-sa góp sức cứu đứa con nhỏ của ông ta bị rơi xuống giếng nên ba đứa trẻ yêu thích A-li-ô-sa và rủ cậu sang vườn chơi.
A-li-ô-sa đã mất bố, mẹ lại đi lấy chồng khác. Cậu thường bị ông ngoại đánh đòn. Chỉ có bà ngoại là người hiền hậu, hết lòng vêu thương, che chở cho cậu. Qua trò chuyện, A-li-ô-sa biết mấy đứa bạn mới quen kia tuy sống trong cảnh giàu sang nhưng cũng chẳng sung sướng gì. Mẹ chết, chúng phải sống với dì ghẻ và cũng thường xuyên bị cấm đoán, bị đánh đòn…
Do hoàn cảnh giống nhau là đều thiếu tình thương nên A-li-ô-sa nhanh chóng kết thân với mấy đứa trẻ kia. Tình bạn trong sáng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng A-li-ô-sa, khiến mấy chục năm sau, khi đã trở thành nhà văn M.Gor-ki, ông vẫn còn nhớ như in và kể lại hết sức xúc động.
Trước khi làm quen, mỗi lần nhìn sang hàng xóm, A-li-ô-sa chỉ thấy: Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau.
Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ có thể phân biệt được chúng theo tầm vóc.
Tuy bị ngăn cấm vì không cùng đẳng cấp nhưng bọn trẻ vẫn lén gặp nhau để chuyện trò tâm sự. Chúng giống nhau ở chỗ đứa nào cũng bị đối xử hà khắc và không có niềm Vui tuổi thơ.
Khi mấy đứa trẻ kể cho A-li-ô-sa biết mẹ chúng đã chết, chúng phải sống với dì ghẻ, cậu bé thấy cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt sầm lại… Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con. Sự so sánh chính xác khiến ta liên tưởng đến cảnh lũ gà con sợ hãi co cụm vào nhau khi nhìn thấy bóng diều hâu.
Mấy đứa trẻ hàng xóm vừa nhắc đến chuyện dì ghẻ mà chúng gọi là mẹ khác, A-li-ô-sa liên tưởng ngay đến nhân vật mụ dì ghẻ độc ác trong các chuyện cổ tích. Cậu chỉ biết an ủi các bạn: Mẹ thật của các cậu thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem! Thằng lớn có vẻ nghi ngờ: Chết rồi cơ mà, về làm sao được… A-li-ô-sa như chìm trong thế giới cổ tích. Cậu nói với các bạn như nói với chính mình: Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy.
Khi đại tá Ôp-xi-an-ni-cốp bất chợt xuất hiện và vặn hỏi mấy đứa con rằng: Đứa nào gọi nó sang? A-li-ô-sa thấy cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà. Cảnh ấy khiến cậu bé nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn hình ảnh so sánh vừa miêu tả chính xác dáng dấp bên ngoài tội nghiệp của ba đứa trẻ và phần nào thế hiện thế giới nội tâm của chúng. Chúng bị cha áp chế, sợ hãi lẳng lặng theo nhau vào nhà, chẳng dám hé răng. A-li-ô-sa thông cảm với cuộc sống hoàn toàn thiếu tình thương của các bạn nhỏ.
Chú bé cảm thấy mình may mắn hơn chúng vì còn có người bà nhân hậu. Bà thường kể chuyện cổ tích cho chú nghe và chú kể lại cho các bạn, chỗ nào quên thì chạy về hỏi bà. Khi đứa con lớn của viên đại tá trầm ngâm bảo: Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt… thì A-li-ô-sa nhận xét: Nó thường nói một cách buồn bã: ngày trước, trước kia, đã có thời… dường như nó đã sống trên trái đất này mội trăm năm, chứ không phải mười một năm.
Không chỉ lời nói mà còn hình dáng, ánh mắt của mấy người bạn nhỏ đọng lại trong trái tim, khiến cho nhà văn sau bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào quên:
Tồi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đến trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất dễ thương, tôi tin yêu lắm, tôi luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lởn hơn cả…
Qua đoạn trích, chúng ta thấy A-li-ô-sa tuy còn nhỏ nhưng đã biết thương người, biết an ủi, san sẻ nỗi bất hạnh của các bạn gần như cùng cảnh ngộ. Rõ ràng, sự phân biệt giai cấp, giàu nghèo trong xã hội không thể nào ngăn cản được tình bạn trong sáng của tuổi thơ. Tình bạn ấy là của cải tinh thần vô giá trong cuộc sống tinh thần của mỗi con người.
Macxim Go-rơ-ki là nhà văn nổi tiếng theo xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa của văn học Nga Xô viết. “ Thời thơ ấu” là tiểu thuyết tự truyện kể về quãng đời ấu thơ của tác giả. “ Những đứa trẻ” là đoạn trích đầy tâm tình xúc động chứa chan tình bạn tình yêu bà của cậu bé Aliôsa. Thông qua đoạn trích ta thấy được thời thơ ấu của tác giả.
Tuổi thơ của tác giả quá nhiều cay đắng và bất hạnh: cha mẹ mất sớm để lại một chút bơ vơ côi cút giữa cuộc đời. Chú phải ở với ông bà ngoại mà ông ngoại thì rất giữ đòn luôn đối xử với chú bằng roi vọt rất tàn nhẫn, trông vào hai cậu thì hai cậu luôn choảng nhau để tranh chấp gia tài. Lão đại tá hàng xóm là quan chức thì hách dịch coi khinh tầng lớp dưới. Đó là những năm tháng tuổi thơ héo hắt, gia cảnh buồn đến nhức nhối. Nhưng chú cũng may mắn còn được sống trong tình thương của bà ngoại, người thợ bên hàng xóm và những đứa trẻ rất đáng yêu của con nhà đại tá. Chính những tình cảm tốt đẹp ấy đã thổi vào tâm hồn trẻ thơ của chú những cảm xúc trong lành và thắm thiết.ình cờ cậu bé gặp lũ trẻ con nhà đại tá vào một buổi sáng đẹp trời từ trên cành cây vắt vẻo. Chú say mê ngắm nhìn chúng và khao khát được chan hòa giữa bạn bè. Chú phải huýt sáo hét lên cười thật to để cho chúng chú ý nhưng chúng cũng chỉ thì thầm khiến chú bé “ ngượng quá bèn tụt xuống đất”. Một hàng rào vô hình ngăn cách hai thế giới tâm hồn tuổi thơ khiến chú tủi và cô đơn nhiều lắm. Đó là kỉ niệm ban đầu đầy nước mắt của Aliôsa.
Một cơ hội để chú bé được chơi thân với lũ trẻ đó là lần chú cùng hai thằng anh con nhà đại tá cứu đứa em út của chúng bị ngã xuống giếng. Đó là một chiến công, một thử thách của tình bạn, hàng rào vô hình bị phá tung. Tiếng gọi đầu tiên của lũ trẻ “ xuống đây chơi với chúng tớ” là tiếng gọi của bạn bè của tình thương và sự tin cậy. Đây cũng là giây phút hạnh phúc nhất.
Cũng từ đó bốn đứa trẻ chơi với nhau như một bầy chim “ ngồi sát bên nhau như những chú gà con”, “ nín chặt môi và má phồng lên” khi nghe Aliôsa kể chuyện cổ tích. Đây là khoảnh khắc thần tiên nhất của đời chúng. Lão đại tá xuất hiện đuổi chú bé ra khỏi nhà và cấm chú không được chơi với con mình.
Tiếp đó là trận đòn của ông ngoại dáng xuống đầu chú. Nhưng tuổi thơ và tình bạn trong sáng không gì có thể ngăn cách được. Vì thế chú tiếp tục chơi với bọn trẻ và quan hệ giữa chúng càng trở nên thích thú. Chúng đã bí mật khoét một lỗ hổng giữa hàng dào để đến với nhau. Chúng canh cho nhau để nghe Aliôsa kể chuyện cổ tích về cuộc sống buồn tủi về những con chim…Có thể nói tuổi thơ của những đứa trẻ đầy ắp kỉ niệm buồn tội nghiệp và bất hạnh.
Nhưng vượt lên chúng đã có một tình bạn vô cùng hồn nhiên trong sáng và tươi đẹp. Tình cảm ấy như một dấu ấn giữa cuộc đời tác giả để rồi hơn 40 năm sau ông vẫn còn nhớ như in và kể lại hết sức chân thực và xúc động.
Tuổi thơ của Aliôsa may mắn được sống trong tình yêu thương của bà. Bà ngoại của chúng trở thành nguồn hạnh phúc là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn. Bà là chỗ dựa tâm hồn che chở và bảo vệ em mỗi khi gặp điều chẳng lành. Mỗi lần kể cho lũ trẻ nghe những câu chuyện cổ tích quên mất tình tiết nào là em chạy về hỏi bà. Điều đó làm cho ba đứa trẻ rất xúc động và mơ ước. Chú rất tự hào kể bao nhiêu chuyện tốt đẹp về bà ngoại mình khiến lũ trẻ cảm thấy buồn thở dài và nó “ có lẽ tất cả các bà rất tốt,bà mình trước đây cũng rất tốt”. Đó là câu nói hết sức giản dị xuất phát từ những cảm nhận của những đứa trẻ bất hạnh.
Tóm lại, tuổi thơ của tác giả trải qua tình bạn và tình yêu thương ấm áp của bà. Có thể nói, tình bạn và tình yêu thương đã giúp Aliôsa vượt lên trên số phận bất hạnh của mình. Những dòng tự thuật của Macxim Go-rơ-ki ta thêm hiểu một tâm hồn trong trẻo biết yêu bà yêu bạn, lớn lên trong tình yêu che chở của bà. Cũng từ đó ta thấm thía một tình bạn đẹp sưởi ấm sự chống trải trong ta, thắp sáng niềm tin và đem lại hạnh phúc cho tuổi thơ. Đó cũng là ý nghĩa nhân văn được toát ra từ vẻ đẹp văn chương của “ thời thơ ấu”
Thông qua các tác phẩm, văn học phản ánh toàn diện đời sống tinh thần, vật chất và các quy luật vận động của xã hội loài người. Theo câu nói của M.Gorki thì “nhân học” ở đây trọng tâm tập trung phản ánh tính xã hội của con người, tức lòng nhân ái của con người.
Như vậy, “Văn học là nhân học” có thể hiểu văn học đã phản ánh, đề cao tình yêu thương con người trong mỗi tác phẩm văn chương. Văn học lấy con người làm đối tượng phản ánh và hướng đến phục vụ đời sống con người.
=> Em tìm các văn bản viết về lòng nhân ái, tình yêu thương con người, có tính giáo dục con người trở nên tốt đẹp hơn để chứng minh nhé!