Ý nghĩa Trâu bảy năm còn nhớ chuồng
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bài 1.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm - Mẫu 1
Vào thế kỉ thứ XVI, đất nước chìm vào nội chiến do hai chúa: Chúa Trịnh chuyên quyền lấn áp vua Lê ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ra sức xây dựng và mở mang thế lực ở Đàng Trong. Nội chiến của nước ta là điều kiện thuận lợi cho phong kiến phương Bắc tiến quân xâm lấn.
Năm 1786, ba anh em nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa và làm chủ được nhiều nơi. Năm 1788, quân Thanh ồ ạt đưa quân vào Thăng Long. Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi vua và chỉ huy toàn lực lượng tiến quân ra Bắc. Hành quân thần tốc và chỉ trong năm ngày chiến đấu, vua Quang Trung Nguyễn Huệ giải phóng hoàn toàn Thăng Long, đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước ta.
Giải phóng hoàn toàn đất nước, vua Quang Trung bắt tay xây dựng Tổ quốc. Tiếc thay, mọi cải cách của ông đang tiến hành thì ông đột ngột từ trần. Người anh hùng áo vải, cờ đào khi ấy chỉ mới bốn mươi tuổi. Vua Quang Trung mất đi để lại trong lòng người dân Việt sự kính trọng, mến tiếc khôn nguôi và lòng tự hào về một anh hùng chống ngoại xâm lỗi lạc.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm - Mẫu 2
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có rất nhiều anh hùng được sử sách ghi danh, một trong số đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Người mà được toàn thể nhân dân Việt Nam kính trọng gọi bằng Bác Hồ. Bác là người lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng tháng 8, lập lên nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Tiếp đó, Bác lại lãnh đạo hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành thắng lợi hoàn toàn thống nhất đất nước. Bác được UNESCO phong tặng danh hiệu " Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới." Cả cuộc đời Bác là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng và lối sống giản dị của Bác để cho nhân dân noi theo. Nhờ có sự lãnh đạo của Bác mà Việt Nam đang là thuộc địa của thực dân Pháp nay đã thành một nước độc lập. Để biết ơn Bác, em nguyện ngoan ngoãn chăm học làm theo 5 điều Bác Hồ dạy.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm - Mẫu 3
Võ Thị Sáu - một người con gái sinh ra ở vùng Đất Đỏ thuộc vùng Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu của nước Việt Nam ta ngày nay. Chị sinh năm 1933, là người con gái vô cùng thông minh, mưu trí, có tinh thần yêu nước và dũng cảm. Dù tuổi đời còn rất nhỏ nhưng chị đã tham gia làm liên lạc viên cho đoàn quân cách mạng của chúng ta và lập được rất nhiều chiến công hiển hách đáng khen thưởng.
Năm 1948, chị được cấp trên giao cho nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó chính là phải đánh phá một buổi lễ mít tinh nhằm kỷ niệm ngày chào mừng Quốc khánh của thực dân Pháp để gây nhiễu loạn và phá hoại âm mưu của kẻ thù. Tại buổi lễ mít tinh đó chị Võ Thị Sáu đã tung lựu đạn vào khán đài có tỉnh trưởng Lê Thành Trường - một lãnh đạo cấp cao của bè lũ tay sai cho thực dân Pháp để giải tán đám đông. Chính chiến công này đã giúp cho chị Võ Thị Sáu của chúng ta lập thêm nhiều chiến công khác oanh liệt hơn.
Sau đó, chị Võ Thị Sáu được cơ quan trung ương Đảng giao cho nhiệm vụ tiêu diệt kẻ gian tế, nên tháng 2 năm 1950 trong khi đi làm nhiệm vụ chị đã bị kẻ thù bắt giữ. Bọn giặc ngoại xâm đã tra tấn chị Võ Thị Sáu của chúng ta vô cùng dã man, bắt chị khai ra những đồng đội của mình. Nhưng chị anh dũng kiên quyết không khai chúng dùng nhiều thủ đoạn tra tấn tàn bạo như dùng dùi điện cho điện giật vào người chị, hay dùng dùi nung lửa nóng khoan lên người chị…Nhưng mọi hình thức tra tấn dã man thời trung cổ đó càng làm chị thêm căm hận kẻ thù chị kiên quyết không hé răng nửa lời.
Cuối cùng không làm được gì chị Võ Thị Sáu chúng buộc lòng đày chị ra Côn Đảo là nơi chuyên giam giữ và đày đọa những người tù chính trị của nước ta, là nấm mồ chôn thân của rất nhiều người anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam ta.
Tới ngày 23/1/1952, chị Võ Thị Sáu anh hùng của chúng ta bị mang ra pháp trường xử tử khi tuổi đời chỉ tròn mười chín tuổi. Cho tới sau này khi đất nước chúng ta hoàn toàn sạch bóng kẻ thù năm 1993 chị Võ Thị Sáu được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, là một trong những chiến sĩ vô cùng trẻ tuổi của ta được vinh danh thiên cổ.
Tấm gương của chị Võ Thị Sáu làm cho chúng em vô cùng ngưỡng mộ, kính trọng vì những gì chị đã hy sinh cho quê hương, tổ quốc để chúng em hôm nay được hưởng cuộc sống thái bình.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm - Mẫu 3
Thuở xưa, nước ta bị quân Hán đô hộ. Chúng rất tàn ác, hà hiếp nhân dân ta và ra sức vơ vét của cải.
Bấy giờ ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi: chị là Trưng Trắc và em là Trưng Nhị. Cả hai bà đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Trưng Trắc có chồng là Thi Sách. Thi Sách là Lạc tướng cũng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc là Tô Định làm thứ sử Giao Châu thời ấy biết được bèn lập mưu giết chết Thi Sách. Nợ nước, thù nhà, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Quân của hai bà đi đến đâu, giặc tan đến đó. Với đoàn quân khởi nghĩa hừng hực khí thế chiến đấu và chiến thắng, Hai Bà tiến về giải phóng thành Luy Lâu. Tướng giặc Tô Định tháo chạy về nước. Hai Bà lên ngôi vua, xưng là Trưng Nữ Vương.
Năm 43, quân giặc cử Mã Viện, đại tướng lão luyện đốc quân đàn áp cuộc khởi nghĩa. Hai Bà lãnh đạo quân ta chiên đấu anh dũng nhưng vì thế giặc quá mạnh, yếu thế, Hai Bà nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết. Dân ta lại chìm trong vòng áp bức của giặc phương Bắc. Dù vậy, tấm gương oanh liệt của Hai Bà Trưng vẫn ngời sáng nghìn thu.
Kể về một anh hùng chống ngoại xâm - Mẫu 4
Năm 1285, quân Nguyên Mông ồ ạt sang xâm lấn nước ta lần thứ ba. Thế giặc rất mạnh nên triều đình lãnh đạo toàn quân và dân rút về cố thủ ở những nơi hiểm yếu, để mặc thành quách, làng mạc trống trải gây hoang mang cho địch và bảo toàn lực lượng. Trên đường rút quân, Hưng Đạo Vương lệnh cho các tướng chốt đóng tại những nơi hiểm yếu cản bước tiến của giặc để bảo vệ Thái Thượng Hoàng và Thượng Hoàng. Danh tướng Trần Bình Trọng chỉ huy quân Cấm Dực, trấn giữ bãi sông Thiên Mạc. Thế giặc rất mạnh, Trần Bình Trọng chẳng may sa vào tay giặc. Biết ông là tướng tài, giặc ra sức dụ dỗ ông, hứa sẽ phong cho ông làm vương đất Bắc. Trần Bình Trọng khẳng khái đáp:
- Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn là vương đất Bắc.
Biết không thể chiêu dụ ông, giặc trói ông ở bãi sông Thiên Mạc chờ nước triều dìm ông chết. Trần Bình Trọng hy sinh khi mới hai mươi sáu tuổi, tấm gương trung liệt của ông chói sáng nghìn thu.
Bài 2.
- Cáo chết 3 năm quay đầu về núi : làm ng` phải thủy chung.
- Lá rụng về cội : gắn bó với quê hương là tình cảm tự nhiên.
- Trâu bảy năm còn nhớ chuồng : loài vật thương nhớ nơi ở cũ.
#Buồn
Bài 1 :
“Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.”
Là con dân đất Việt, chắc hẳn chúng ta đều đã từng nghe danh tiếng của Bà Trưng được nhắc đến trong câu thơ. Hai Bà Trưng là hai nữ anh hùng bất khuất, gan dạ trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của đất nước ta.
Em đã được học câu chuyện về Hai Bà Trưng. Hai bà là hai chị em ruột, người chị tên là Trưng Trắc, người em tên là Trưng Nhị. Hai bà quê ở huyện Mê Linh, từ nhỏ đã nổi tiếng là hai người con gái tài giỏi. Cha hai bà mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ.
Thuở ấy, nước ta bị nhà Hán đô hộ. Chúng đàn áp dân lành hết sức tàn bạo. Chúng thẳng tay chém giết dân ta, cướp hết ruộng đất của dân. Nhân dân ta mang lòng oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp để vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng mang trong mình chí hướng giành lại non sông. Tướng giặc là Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách.
Nhận được tin không lành, Hai Bà Trưng liền kéo quân về thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Hai Bà Trưng mặc giáp phục lộng lẫy, bước lên vành voi đầy uy nghi. Đoàn quân hùng hồn lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng voi ẩn hiện của hai bà. Đi đến đâu, tiếng trống đồng của quân ta dội vàng đất trời tới đó. Cuối cùng, thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới đoàn quân khởi nghĩa. Tướng giặc sợ hãi, ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù.
Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử đất nước ta. Để tưởng nhớ công ơn hai bà, dân ta đã lập đền thờ Hai Bà Trưng. Hằng năm, cứ độ xuân về, vùng Mê Linh lại rộn ràng tiếng chiêng, tiếng trống đón hội. Hai bà quả thực là những vị nữ tướng dũng cảm, anh hùng, đáng cảm phục.
Bài 2 :
Cáo chết ba năm quay về đầu núi : Làm người phải thủy chung.
Lá rụng về cội : Gắn bó với quê hương là tình cảm tự nhiên.
Trâu bảy năm còn nhớ chuồng : Loài vật thường nhớ nơi ở cũ.
Study well @ #Linhngoc's#
gắn bó với quê hương là tình cảm tự nhiên
tui hc r
7: Cho các câu tục ngữ sau: Cáo chết ba năm quay đầu về núi. Lá rụng về cội. Trâu bảy năm còn nhớ chuồng.Dòng nào dưới đây giải nghĩa chung của các câu tục ngữ đó?a, Làm người phải thủy chung.
b, Gắn bó quê hương là tình cảm tự nhiên.c, Loài vật thường nhớ nơi ở cũ.d, Lá cây thường rụng xuống gốc.
Hơi dài bạn ạ .Mình bắt đầu nha:
Nói về mối quan hệ trai gái, câu tục ngữ “Trâu tìm cọc (cột) cọc (cột) chẳng tìm trâu” hàm chỉ người con trai thường đi tìm người con gái để ngỏ lời chứ con gái không đi tìm con trai để tán tỉnh. Hình ảnh đáng yêu của “ngọn cỏ phất phơ” là em và anh là “con nghé nhởn nhơ” đi tìm cỏ, cỏ cần cho trâu và trâu bao giờ cũng khát khao ăn cỏ như anh khát khao em:
Việt Nam là nước nông nghiệp điển hình. Trâu là con vật có vai trò lớn trong sản xuất nông nghiệp. Công việc chính của nhà nông như cày bừa, vận chuyển thóc gạo...đều do trâu đảm nhiệm. Trâu gắn bó thân thiết với cả đời người nông dân vì thế nó đã đi vào đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân Việt Nam từ xa xưa. Hình ảnh con trâu đã được thể hiện trong văn học dân gian, đặc biệt là thể hiện trong ca dao, tục ngữ Việt Nam một cách đậm nét.
Hình ảnh con trâu trong ca dao, tục ngữ trước hết là hình ảnh được biểu hiện hiển ngôn. Trong hai con vật thân quen với cuộc sống của người nông dân là trâu và bò thì trâu được đánh giá cao hơn bò: “Trâu gầy cũng tày bò giống”, “Trâu he cũng bằng bò khỏe” (Tục ngữ ). Bò khả năng chịu rét kém, sức kéo không khỏe bằng trâu, đặc biệt là việc kéo cày ở đồng chiêm thì bò kém xa trâu. Trâu có sức khỏe dẻo dai, nhanh nhẹn hơn bò:
Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh về già,
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao!
Chính vì thế mà nuôi trâu để phục vụ cho lao động sản xuất là sự ưu tiên lựa chọn hàng đầu của người nông dân. Nghề nông mà không có trâu thì không thể tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao giống như việc nhà giàu mà không có thóc gạo: “Làm ruộng không trâu, làm giàu không thóc”. Muốn có trâu hay, cày khỏe thì cần phải biết chọn trâu giống tốt. Tục ngữ nêu lên kinh nghiệm mua trâu: “Mua trâu xem sừng, mua chó xem chân” hay “Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi”, “Trâu cổ cò, bò cổ vại”. Trâu sừng to, cân đối là trâu khỏe. Cổ trâu dài, cổ bò ngắn và to là loại trâu bò kéo khỏe. Trâu khỏe và nhanh có ảnh hưởng đến hiệu quả công việc sản xuất:
-Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
-Trâu khoẻ chẳng lọ cày trưa,
Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền.
Trâu là con vật đóng vai trò hàng đầu của nhà nông: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Muốn làm giàu thì phải nuôi trâu, đặc biệt là trâu nái vừa cày vừa sinh sản và bán trâu giống là có cơ hội giàu có: “Muốn giàu nuôi trâu nái, muốn lụn bại nuôi bồ câu”. Tuy nhiên, việc “tậu trâu” là việc hệ trọng tương đương với “lấy vợ, làm nhà” và chọn trâu tốt không phải là công việc dễ dàng:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà,
Trong ba việc ấy thật là khó thay.
Sự giàu có sung túc của nhà nông được đánh giá bằng chất lượng và số lượng ruộng và trâu: “Ruộng sâu, trâu nái” và ca dao thì:
Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu,
Tham vì ông lão tốt râu mà hiền.
Chăn trâu là một việc làm khá vất vả, phải đi sớm về khuya, suốt ngày phơi ngoài đồng, phải chịu mưa nắng gió rét, chăm bẵm trâu cho béo tốt, có sức mà kéo cày:
Trâu anh con cưỡi con dòng,
Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn.
Chăn trâu là phải luôn coi chừng trâu, không để trâu đi lạc đàn, trâu ăn lúa. Trâu đã đi vào bài ca dao huyền thoại nói về chú Cuội chăn trâu mải chơi, ngồi gốc cây đa để trâu ăn lúa:
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vòng
Chính vì vất vả nặng nhọc và mang trách nhiệm nặng nề nên đứa trẻ chăn trâu được xã hội xưa coi trọng, quý mến. Có hẳn một lễ hội mục đồng mà những đứa trẻ chăn trâu tham gia và được đối xử trọng vọng. Lễ hội chọi trâu là một hình thức thi trâu khỏe, tôn vinh người chăn trâu, gia đình nào có trâu thắng cuộc thì rất vinh dự. Lễ hội chọi trâu trở thành một ngày hội lớn:
Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu.
Con trâu với công việc cày bừa của nhà nông thường do người đàn ông đảm nhận. Vì vậy, biết điều khiển con trâu và cày sao cho giỏi là tiêu chuẩn để đánh giá người con trai trong công việc nhà nông:
Trai thì cày ruộng khiển trâu
Gái thì phải biết bổ cau têm trầu
Văn hóa nghề nông thể hiện rất rõ qua công việc cày cấy, mối quan hệ giữa người với trâu. Trâu không còn là con vật mà là người bạn cùng làm nông, họ thường tâm tình tha thiết với trâu về công việc cày cấy:
Trâu ơi! Ta bảo trâu này!
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cày cấy vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công!
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thời còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Người chăn trâu tâm tình, khuyên bảo trâu ân cần về việc ăn uống, làm lụng, cả về những vấn đề triết lý nhân sinh:
Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ăn cho béo trâu cày cho sâu.
Ở đời khôn khéo chi đâu,
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.
Với nghề nông thì “cần” là phẩm chất quan trọng và người chăn trâu khuyên trâu muốn cần thì phải có sức khỏe, muốn có sức khỏe để cày sâu thì phải ăn khỏe. Người nông dân nói với trâu là cũng tự nhủ với lòng mình.
Con trâu thường gắn với lịch nông vụ:
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…
Nghề nông là một nghề vất vả nhưng là một nghề cao cả vì nó quyết định đến đời sống của mọi người. Người Đông Nam Á nói chung và người Việt Nam nói riêng, cơm là món ăn chủ đạo hàng ngày. Bài ca sau đây nói về sự lam lũ của nghề nông và lời nhắn gửi với mọi người đừng quên công lao nhọc nhằn của họ:
Lao xao gà gáy rạng ngày,
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.
Bước chân xuống cánh đồng sâu,
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày.
Ai ơi! bưng bát cơm đầy,
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng.
Tuy vất vả nhưng người nông dân luôn yêu đời, lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Họ coi công việc cày cấy là niềm vui và giữa trâu với người cùng hòa bài ca niềm hăng say lao động. Cảnh trâu và người đồng hành trong công việc nhà nông, trâu như một thành viên trong gia đình đầm ấm hạnh phúc:
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa
Hình ảnh con trâu được dùng với ý nghĩa hàm ngôn có số lượng khá cao trong các bài ca dao tục ngữ nói về con trâu. Nhận xét về các loại người trong xã hội, tục ngữ dùng hình ảnh trâu với các cấu trúc biểu thị ý nghĩa hàm ngôn. Hình ảnh “trâu chậm” và “trâu ngơ” để biểu thị loại người chậm chạp, ngu ngơ thì sẽ bị thua thiệt: “Trâu chậm uống nước dơ Trâu ngơ ăn cỏ héo”. Khi người ta cùng cảnh ngộ, cùng giới tính thì thường có những suy nghĩ và ham muốn giống nhau thể hiện qua câu tục ngữ: “Bụng trâu làm sao, bụng bò làm vậy” hay “Bụng trâu cũng như dạ bò”. Phê phán những kẻ cơ hội, vô tâm, chỉ biết lợi cho mình, tục ngữ có câu: “Trâu lành không ai mà cả Trâu ngã nhiều gã cầm dao”, “Trâu chết mặc trâu bò chết mặc bò củ tỏi giắt lưng”. Để chỉ loại người tham lam vô độ, tác giả dân gian dùng hình ảnh cái bụng vô độ của chó và trâu: “Cơm đâu no bụng chó, cỏ đâu no bụng trâu”.
Tục ngữ thường lấy hình ảnh con trâu để nhận xét về các quan hệ trong xã hội. Trong xã hội xưa, những thế lực thống trị thường tranh chấp nhau làm cho dân tình tang thương khốn khổ thể hiện qua câu tục ngữ: “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Để biểu thị sự so kè, ghen ghét nhau của các quan chức thời phong kiến, tác giả dân gian đã dùng hình ảnh “trâu buộc” và “trâu ăn”:
Trâu buộc thì ghét trâu ăn,
Quan võ thì ghét quan văn dài quần.
Nhận xét về nhân tình thế thái, tác giả dân gian thường dùng hình ảnh trâu với các cấu trúc ngữ nghĩa khác nhau. Câu tục ngữ “Cứt trâu để lâu hóa bùn” để hàm chỉ sự việc gì mà để lâu thì giảm bớt hiệu quả, giảm bớt sự nghiêm trọng của sự việc, thậm chí có thể thay đổi bản chất vấn đề. Thói thường nhiều khi người ta không nhận ra bản chất sự việc, khi có nhiều thì chê ỏng chê eo nhưng khi không có, túng thế lại chấp nhận những cái tầm thường:
Nước giữa dòng chê trong, chê đục
Vũng trâu đầm hì hục khen ngon
Nói về sự bù trừ, tương trợ lẫn nhau hoặc là sự chia đều, đỗ đồng, tục ngữ có câu: “Trâu béo kéo trâu gầy”. Nói về tính cộng đồng thì tác giả dân gian thường nói về thói quen sống theo bầy đàn của trâu, đây cũng là tâm lý bầy đàn của xã hội sống quần cư: “Trâu có đàn, bò có lũ”. Người Việt Nam luôn trọng danh dự, coi danh dự hơn cả của cải vật chất nên biết tạo danh tiếng cho mình. Câu tục ngữ “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng” là để nhắc nhở mọi người biết giữ gìn danh dự.
Tác giả dân gian mượn hình ảnh trâu với đặc tính không thính tai để nói về vấn đề có tính triết lý nhân sinh, nói với người không hiểu biết như “Đàn gảy tai trâu”, làm việc một cách vô ích, không có hiệu quả:
Đàn đâu mà gảy tai trâu,
Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi.
Nói về mối quan hệ trai gái, câu tục ngữ “Trâu tìm cọc (cột) cọc (cột) chẳng tìm trâu” hàm chỉ người con trai thường đi tìm người con gái để ngỏ lời chứ con gái không đi tìm con trai để tán tỉnh. Hình ảnh đáng yêu của “ngọn cỏ phất phơ” là em và anh là “con nghé nhởn nhơ” đi tìm cỏ, cỏ cần cho trâu và trâu bao giờ cũng khát khao ăn cỏ như anh khát khao em:
Em như ngọn cỏ phất phơ,
Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng.
Hình ảnh cỏ được tiếp tục để hàm chỉ người con gái và sự “kén cỏ” được hàm chỉ sự kén vợ của các chàng trai:
Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia không vợ đời nào có con.
Người ta con trước con sau,
Thân anh không vợ như cau không buồng.
Nói đến trâu là gắn với chức năng cày và làm việc vất vả, nặng nhọc: “Trâu cày ngựa cưỡi”. Mượn ý của câu thành ngữ này nhưng ca dao nói với hàm nghĩa vui đùa:
Của chua ai nấy cũng thèm,
Em cho chị mượn chồng em vài ngày.
-Chồng em đâu phải trâu cày,
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm.
Nói đến trâu gắn liền với đồng làng là hàm chỉ kiểu văn hóa làng xã. Trong xã hội xưa, dân làng nào thì theo tập quán, hương ước của làng ấy theo kiểu: “Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy”. Các sinh hoạt đều bó hẹp trong phạm vị làng xã, thậm chí cái gì của làng mình cũng tốt hơn làng khác. Đây là kiểu văn hóa tự hào tự tôn về làng xã của mình:
Trâu ta ăn cỏ đồng ta,
Tham thanh chuộng lạ dắt qua đồng người.
Đồng người cỏ tốt nhưng hôi,
Đồng ta cỏ xấu nhưng bùi trâu ăn.
Như vậy, ngôn ngữ ca dao, tục ngữ có hình ảnh con trâu thể hiện đầy đủ các khía cạnh của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Nói đến trâu là nói đến nền sản xuất nông nghiệp và văn hóa làng xã. Hình ảnh trâu trong ca dao, tục ngữ là hình ảnh dùng để so sánh, ẩn dụ nên nó có ý nghĩa hàm ngôn, thể hiện những nhận xét của tác giả dân gian về con người, việc đời và rút ra các mối quan hệ nhân sinh. Rồi mai đây, con trâu không còn kéo cày trên cánh đồng nhưng hình ảnh con trâu trong ca dao, tục ngữ là một kho bảo tàng sống động về sinh hoạt làng quê và phong tục tập quán gắn với nghề nông một thời.
1. - Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi
- Hai Bà Trưng
- Anh hùng Trần Đại Nghĩa
2.a) thợ điện,thợ cơ khí,thợ cày
b) thợ cấy
c) tiểu thương, chủ tiệm
d) đại úy, trung úy
e) bác sĩ, kĩ sư, giáo viên
g) học sinh tiểu học, học sinh trung học
3.- Nhặt được của rơi, trả cho người mất
4.a) cáo chết ba năm quay đầu về núi
b) trâu bảy năm còn nhớ chuồng
c) lá rụng về cuội
mình quên, còn câu 5 nữa, hì :)
5. vui tươi, tươi trẻ, sinh đẻ
Ý nghĩa của câu 'Trâu bảy năm còn nhớ chuồng' là dù có gì đi chăng nữa, trâu vẫn nhớ tới quê hương. Nơi mà nó đã đc chăm sóc và lớn lên như bây giờ
Là động vật thường nhớ về nơi ở cũ của mình, và cũng nó lên rằng tình cảm của con người với quê hương rất thân thiết.