Vì sao hiện nay nhiều nước trên thế giới thực hiện kế hoạch hóa gia đình? Giảm tỉ lệ gia tăng tự nhiên?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án A
Hiện nay, nhờ thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình (tuyên truyền, khuyến khích mỗi gia đình chỉ nên có từ 1 – 2 con)
=> Tỉ lệ gia tăng dân số ở nhiều nước trên thế giới đã giảm dần và đạt tỉ lệ gia tăng hợp lí hơn
Hiện nay tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số nước ta giảm nhưng quy mô dân số vẫn tăng là do
A. tỉ lệ tử có xu hướng giảm.
B. số người nhập cư vào nước ta ngày càng tăng.
C. số dân đông, số người trong độ tuổi sinh đẻ cao.
D. chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình của Nhà nước có hiệu quả.
Bài làm
- Xét về tự nhiên châu Á là châu lục lớn nhất thế giới, sự tập trung dân cư gắn với sự hình thành lãnh thổ lâu đời, hơn nữa châu Á cũng là một trong những cái nôi của loài người và có lịch sử khai thác lãnh thổ khá lâu đời
- Châu Á tập trung các quốc gia rộng lớn và đông dân như Trung quốc, LB Nga
- Châu á là châu lục có đktn thuận lợi vì nằm trong khu vực hoạt động gió mùa, có đầy đủ các đới khí hậu xđ, cận xđ, nhiệt đới, cận nhiệt, ôn đới và hàn đới.
Châu Á là nơi có nền văn hóa phát triển
---> Tất cả sự thuận lợi về đktn và xã hội đã dẫn đến việc châu Á đông dân, ngoài ra do chiến tranh -> đói nghèo -> tâm lý sinh bù, sinh dự trữ, và ngoài ra còn do hủ tục lạc hậu. Một vấn đề nữa là do tín ngưỡng tôn giáo. Nếu theo thiên chúa giáo họ sẽ không cho kế hoạch và bắt phải sinh đến hết trứng lun. nên các quốc gia có dân số đông thường có nhiều thành phần theo Thiên Chúa Giáo
Do nhiều nước đưa ra chính sách dân số thích hợp và do quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá kết các nước Trung Quốc,Thái Lần,Việt Nam...
- Mỗi gia đình chỉ có 1-2 con
-Thực hiện chính sách dân số,kế hoạch hoá gia đình
-Tuyên truyền chiến dịch tới truyền Thoòng về dân số
Thứ nhất: Một số nước khuyến khích sinh con
-Thứ 2: Uớc mong sinh nhiều của nhiều gia đình
Thứ 3: Thực hiện chính sách chưa triệt để
- Giai đoạn 1990 – 1995 so với giai đoạn 1950 – 1955 , tỉ lệ gia tăng dân số ở Châu Phí là cao nhất (tăng thêm 0,45%) và Nam Mĩ có tỉ lệ gia tăng dân số thấp nhất (giảm đi 0,95%).
- Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của châu Á giảm mà tỉ trọng dân số so với toàn thế giới vẫn tăng, vì:
+ Dân số châu Á đông (chiếm 60,5% dân số thế giới, năm 1995).
+ Tỉ lệ gia tăng dân số vẫn còn ở mức cao (1,53% trong giai đoạn 1990 - 1995).
Vào những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, mức sinh của nước ta rất cao, gần như ở mức tự nhiên. Trung bình mỗi cặp vợ chồng có khoảng 7 con. Vì vậy, tỷ lệ tăng dân số lên tới 3,3%/năm, nghĩa là cứ khoảng 22 năm dân số lại tăng gấp đôi.
Thời kỳ này, Việt Nam vừa ra khỏi 9 năm kháng chiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Để phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước chủ trương vừa phục hồi kinh tế vừa sớm khởi động cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình. Năm 1961, Hội đồng Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định 216/CP về việc “sinh đẻ có hướng dẫn”, mở đầu cho một thời kỳ kiên trì và đẩy mạnh công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) với mục tiêu cốt lõi, xuyên suốt là giảm sinh để thực hiện được mô hình “Mỗi cặp vợ chồng có 2 con”.
Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh và những nguyên nhân khác, sau 30 năm, công tác DS-KHHGĐ vẫn chưa có nhiều kết quả. Mức sinh giảm chậm, năm 1991 còn ở mức cao: Trung bình mỗi cặp vợ chồng có gần 4 con, tỷ lệ tăng dân số hơn 2,3%! Mục tiêu về dân số trong suốt 3 nhiệm kỳ Đại hội Đảng (IV, V, VI) không đạt được. Trung ương Đảng khóa VII nhận định: "Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá, thể lực của giống nòi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí những nguy cơ về nhiều mặt" (1).
Trước tình hình đó, lần đầu tiên trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/HNTW về Chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình. Chỉ sau 12 năm thực hiện Nghị quyết này, Chương trình DS-KHHGĐ của Việt Nam đã thành công tốt đẹp. Năm 2005, tính chung trên cả nước, trung bình mỗi cặp vợ chồng có khoảng 2,0 con - mục tiêu mà suốt 45 năm Việt Nam kiên trì theo đuổi đã đạt được; đồng thời vượt mức mà mục tiêu Nghị quyết số 04-NQ/HNTW đề ra là năm 2015 mới đạt mục tiêu này. Thành tựu này cũng mang tính vượt trội, khi tại thời điểm 2005, có tới 107 trong số 169 nước so sánh, mức sinh cao hơn nước ta. Đặc biệt, 39 nước có trình độ phát triển cao hơn nhưng mức sinh cũng cao hơn Việt Nam (2). Chính vì vậy, ngay từ năm 1999, Liên Hợp Quốc đã tặng Giải thưởng Dân số cho Việt Nam.
Thành công của Chương trình Dân số - KHHGĐ tác động sâu sắc đến sự phát triển đất nước trên cả tầm vĩ mô và vi mô. Đó là sự đóng góp lớn vào sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bền vững về môi trường; đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.