Tại sao nói cơ thể người là 1 hệ thống nhất?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
Hệ thống mở và tự điều chỉnh là khả năng tự điều chỉnh của hệ thống sống nhằm đảm bảo duy trì và điều hòa cân bằng động trong hệ thống để tồn tại và phát triển.
Nói cơ thể thực vật và động vật là những hệ thống mở, tự điều chỉnh bởi vì: Sinh vật ở mọi tổ chức đều không ngừng trao đổi vật chất và năng lượng với môi trường và sinh vật không chỉ chịu sự tác động của môi trường mà còn góp phần làm biến đổi môi trường. Mọi cấp độ tổ chức sống từ thấp đến cao đều có các cơ chế tự điều chỉnh để đảm bảo duy trì và điều hòa sự cân bằng trong hệ thống giúp hệ thống cân bằng và phát triển.
a/. Ở cấp độ tế bào:
- Tất cả các bộ phận, các cơ quan trong cơ thể đều được cấu tạo bởi tế bào. Tế bào là đơn vị cấu tạo của cơ thể.
- Hình dạng, kích thước tế bào thay đổi, tuỳ từng vị trí, chức năng: có thể hình tròn, hình trụ, vuông, tháp, sao… Kích thước rất nhỏ, giao động từ 5 -200 µm (Nơ ron tiểu não là loại tế bào nhỏ nhất; tế bào trứng chín là loại tế bào lớn nhất).
- Mỗi tế bào đều được cấu tạo bởi các nguyên tố hoá học (khoảng 40 nguyên tố), trong đó có C, H, O, N chiếm tỉ lệ 98%; còn lại là S, P, Cl, K, Na, Ca. Fe, I, Mn, Cu, Co. Các nguyên tố đó kết hợp với nhau tạo thành các hợp chất hoá học cơ bản để xây dựng nên cấu trúc tế bào, đó là Prôtêin, Lipít, Gluxít, Nước, Muối khoáng. Trong đó Prôtêin đóng vai trò xây dựng cấu trúc của tế bào, các en zym, hoocmon; Lipit tham gia cấu tạo màng tế bào, màng các bào quan và là nguồn dự trữ năng lượng của tế bào. Gluxít là nguồn năng lượng chủ yếu của tế bào trong các quá trình sống, đồng thời tham gia cấu tạo các cấu trúc của tế bào. Muối khoáng thường có tỉ lệ xác định và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì áp suất thẩm thấu trong tế bào. Nước kết hợp với Prôtên và các hợp chất hữu cơ khác làm cho cả tế bào có tính chất của một khối dung dịch keo.
- Tuy hình dạng, kích thước khác nhau, nhưng các tế bào đều có các bộ phận cơ bản là: màng sinh chất, chất nguyên sinh (tế bào chất), nhân và các bào quan.
+ Màng sinh chất là lớp màng bao phía ngoài cùng của chất tế bào (nên còn được gọi là màng ngoại chất) có tính chất đậm đặc hơn phía trong. Màng sinh chất được cấu tạo bởi 2 thành phần cơ bản là Prôtêin và Lipit. Cấu trúc của màng sinh chất rất phức tạp. Có nhiều giả thuyết khác nhau về cấu trúc màng sinh chất. Theo giả thuyết của Frây Vicling, màng nguyên sinh có các lỗ là các khe hở giữa Prôtit và Lipit. Theo Singer và Nicolson (1972) màng nguyên sinh có mô hình “khảm lỏng”. Theo mô hình này các phân tử phốt pholipit xếp thành 2 lớp đều đặn có tính lỏng hướng đầu ưa nước ra phía ngoài, còn các phân tử protêin của màng có thể ngập sâu một phần trong lớp phốt pholipit, hoặc xuyên qua chúng
Còn theo quan điểm của Danielli và Davson thì màng sinh chất có cấu trúc là một màng kép, gồm 2 lớp phân tử Prôtit hình cầu hay hình sợi ở phía ngoài, giữa là 2 lớp Lipít phân cực quay đầu ưa nước ra ngoài. Cấu trúc đó gọi là cấu trúc màng cơ sở. Nhờ đó giúp cho màng sinh chất có những khả năng:
Thấm chọn lọc, thực hiện trao đổi chất với môi trường;
Ngăn cách với tế bào khác và với môi trường;
Trao đổi thông tin từ ngoài vào và ngược lại;
Bài tiết các chất cặn bã hình thành trong quá trình trao đổi chất;
Dẫn truyền hưng phấn…
+ Chất tế bào (hay chất nguyên sinh = bào tương): là khối chất nguyên sinh nhớt nằm trong màng sinh chất. Nó là thành phần bắt buộc, là môi trường diễn ra các hoạt động sống của tế bào.
+ Nhân tế bào. Trừ một số tế bào đặc biệt không nhân (vídụ hồng cầu) hoặc nhiều nhân (ví dụ tế bào cơ vân) còn hầu hết mỗi tế bào đều thường có 1 nhân. Nhân thường nằm ở giữa tế bào, hình cầu hay hình bầu dục. Nhân gồm có màng nhân ngăn cách với phần tế bào chất xung quanh. Màng nhân cũng có cấu trúc màng kép và là màng cơ sở. Trên màng nhân có nhiều lỗ nhỏ. Bên trong có chất nhân (nhân tương) chứa thể nhiễm sắc và hạch nhân. Hạch nhân là khối cầu nhỏ tạo bởi ARN. Nhiễm sắc thể (NST) là những thể nhỏ hình dây nằm trong nhân, cấu tạo bởi chất AND gắn với Prôtêin loại histon. Số lượng nhiễm sắc thể trong tế bào sinh dưỡng ở mỗi loài động vật là một số cố định 2n (của người là 23 cặp NST, của ruồi dấm là 4 cặp …). Riêng số lượng NST của tế bào sinh dục chỉ là 1n.
Nhân là trung tâm điều khiển mọi hoạt động sống của tế bào, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong di truyền.
+ Các bào quan. Bào quan là những cấu trúc đặc biệt nằm trong khối chất nguyên sinh, thực hiện các chức năng nhất định của tế bào. Người ta phân biệt 2 loại bào quan là bào quan chung và bào quan chuyên hoá (bào quan đặc biệt)
Bào quan chung là các bào quan thực hiện các chức năng giống nhau ở các tế bào khác nhau, như: Ty thể, Ribôxôm, Lizôxôm, Trung thể, Mạng lưới nội chất, Thể gôngi
Ty thể : là những bào quan hình que, hay chuỗi hạt, có cấu trúc màng kép, trong có nhiều vách ngăn tạo thành tấm răng lược, trong đó chứa đầy enzim hô hấp. Nó là trung tâm cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động sống của tế bào.
Ribôxôm: là những bào quan nhỏ nằm rải rác trong chất tế bào hoặc bám vào thành của lưới nội bào hay trên màng nhân. Ribôxôm không có cấu trúc màng kép, trong chứa nhiều loại ARN. Ribôxôm có vai trò trong tổng hợp Prôtêin.
Lizôxôm (tiểu thể): là những hạt nhỏ hình trứng chứa nhiều enzim có khả năng làm tiêu huỷ các sản phẩm của chất sống nên có tác dụng tiêu hoá các chất hữu cơ lạ xâm nhập vào tế bào. (Chúng có nhiều trong các tế bào gan).
Trung thể (tiểu thể trung tâm) nằm gần nhân, hình hạt nhỏ, đóng vai trò quan trọng trong phân bào và chi phối sự vận động của tế bào.
Mạng lưới nội bào: là hệ thống ống và túi nhỏ thông nhau và liên hệ với màng nhân, màng sinh chất và màng các bào quan. Nó có cấu trúc màng cơ sở. Có 2 loại lưới nội bào: loại không hạt và loại có hạt. Lưới nội bào đóng vai trò quan trọng trong sự dẫn lưu và chuyển hoá (trao đổi chất) trong tế bào.
Bộ máy Gôngi: là những túi dẹt, có chức năng chế tiết các chất tiết. Nó tham gia vào quá trình chuyển hoá các chất, thâu tóm các chất do tế bào tiết ra.
Ngoài các thành phần trên, ở những tế bào đặc biệt, còn có những thành phần nhỏ khác gọi là bào quan chuyên hoá như sợi tơ cơ trong các tế bào cơ; hạt sắc tố trong tế bào thượng bì da; các sợi thần kinh có khả năng dẫn truyền xung thần kinh; các thể vùi trong tế bào là các chất Prôtêin, Lipít, Gluxít tích tụ trong tế bào dưới dạng các hạt (ví dụ: hạt glycogen dự trữ ở gan)
+ Khoảng gian bào: Phía ngoài của mỗi tế bào là khoảng gian bào, có vai trò ngăn cách các tế bào với nhau và là nơi để tế bào trao đổi chất với môi trường ngoài. Trong gian bào chứa đầy chất gian bào. Trong đó có các sợi cốt giao và các sợi đàn hồi mảnh, dài, bền, xoắn vào nhau để tạo thành một khối. Đó là cơ sở để tạo thành các tổ chức mô.
vì các hệ cơ quan cùng phối hợp với nhau dưới sự điều khiển của hệ thần kinh và hệ nội tiết
Tham khảo!
- Cơ thể người là một hệ thống mở vì giữa cơ thể người với môi trường sống luôn có sự trao đổi, tác động qua lại thông qua quá trình trao đổi chất và chuyển hóa năng lượng. Cơ thể người lấy O2 từ môi trường thông qua hệ hô hấp, chất dinh dưỡng được tiêu hóa và thải ra ngoài môi trường CO2, chất thải, chất thừa và chất không cần thiết thông qua hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, hệ bài tiết.
Câu 1
- Cân bằng nội môi là cân bằng động vì các chỉ số của môi trường trong cơ thể có xu hướng thay đổi và dao động xung quanh một khoảng giá trị xác định do ảnh hưởng từ sự thay đổi liên tục của các kích thích bên ngoài hoặc bên trong cơ thể.
Câu 2
- Trạng thái cân bằng nội môi được duy trì nhờ các hệ thống điều hoà cân bằng nội môi. Mỗi hệ thống điều hoà cân bằng nội môi gồm 3 thành phần: bộ phận tiếp nhận kích thích, bộ phận điều khiển và bộ phận thực hiện.
+ Bộ phận tiếp nhận: là thụ thể hoặc cơ quan thụ cảm, tiếp nhận kích thích từ môi trường trong hoặc ngoài cơ thể.
+ Bộ phận điều khiển: là trung ương thần kinh hoặc tuyến nội tiết. Bộ phận điều khiển chuyển tín hiệu thần kinh hoặc hormone đến bộ phận thực hiện.
+ Bộ phận thực hiện, còn gọi bộ phận đáp ứng: là các cơ quan như thận, gan, phổi, tim, mạch máu,...
- Ví dụ: Gan điều hòa nồng độ glucose máu ở mức 3,9 – 6,4 mmol/L.
Câu 3
- Nếu uống thừa nước sẽ dẫn đến thừa nước gây loãng máu, tăng áp lực thải nước qua thận, lâu ngày dẫn đến suy thận.
- Nếu uống không đủ nước, cơ thể khó thải hết các chất thải độc hại qua thận, đồng thời nồng độ các chất thải trong nước tiểu tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho sỏi thận hình thành.
Câu 4
- Vì những người bị bệnh suy thận nặng, thận của họ bị suy giảm chức năng không thể phục hồi dẫn đến không thể thực hiện được chức năng lọc máu, làm cho các chất độc hại, chất thải tích tụ trong cơ thể gây rối loạn các hoạt động sống, đe dọa trực tiếp đến tính mạng của bệnh nhân.
- Vì vậy, phải ghép thận (thay thế thận khỏe mạnh) hoặc chạy thận nhân tạo (sử dụng máy chạy thận để lọc máu thay cho thận) nhằm giúp đảm bảo việc đào thải các chất độc, chất thải trong máu ra khỏi cơ thể, kéo dài sự sống cho bệnh nhân.
Câu 5
- Hormone ADH có tác dụng kích thích tăng tái hấp thụ nước ở ống thận và ống góp, làm giảm lượng nước tiểu và tăng lượng nước trong máu.
- Do đó, khi uống rượu, rượu ức chế tuyến yên giải phóng ADH dẫn đến hạn chế việc tái hấp thụ nước ở thận khiến cho việc bài tiết nước tiểu tăng. Lượng nước tiểu bài tiết nhiều dẫn đến cơ thể bị mất nước (áp suất thẩm thấu của máu tăng) kích thích gây nên cảm giác khát nước.
- Tế bào gồm nhiều mô có chức năng giống nhau
- Mô, cơ quan, hệ cơ quan không thể thực hiện các chức năng một cách độc lập
- Tế bào gồm nhiều mô có chức năng giống nhau - Mô, cơ quan, hệ cơ quan không thể thực hiện các chức năng một cách độc lập
Tham khảo nha!
Cơ thể luôn luôn có sự trao đổi tương tác với môi trường bên ngoài.
Ví dụ: Hô hấp, tiêu hóa, bài tiết,…
* Cơ thể là một hệ thống tự điều chỉnh nhằm thích nhứng với những tác động từ bên trong và bên ngoài cơ thể.
Ví dụ: Cơ chế điều chỉnh nhịp tim, đường huyết,… *
Cơ thể là một khối thống nhất về cấu tạo và chức năng giữa các cơ quan với nhau nhằm thực hiện các chức nhằm đảm bảo khả năng thích ứng của cơ thể với môi trường sống.
Ví dụ: Hệ thần kinh điều khiển hô hấp, hô hấp cung cấp oxi nuôi dưỡng hệ thần kinh,…
* Cơ thể thống sống luôn luôn tác động qua lại với môi trường sống để tồn tại và phát triển.
Ví dụ: Tiếp nhận kích thích, lao động,..
Nói cơ thể là một thể thống nhất, vì:
- Tất cả các thành phần cấu trúc của tế bào, tế bào, mô, cơ quan, bộ phận trong một cơ thể đều có sự liên quan, phối hợp với nhau để thực hiện các hoạt động sống của cơ thể: Nhờ cơ thể lấy các chất dinh dưỡng, nước, chất khoáng và oxygen từ môi trường mà tế bào thực hiện được quá trình trao đổi chất để lớn lên, sinh sản và cảm ứng, từ đó giúp cơ thể thực hiện được các hoạt động sống.
- Trong cơ thể sinh vật, các hoạt động sống tác động qua lại mật thiết đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của toàn bộ cơ thể như một thể thống nhất: Quá trình trao đổi chất và chuyển hóa năng lượng cung cấp vật chất và năng lượng đảm bảo cho cơ thể sinh trưởng và phát triển, sinh sản và cảm ứng. Ngược lại, các quá trình sinh trưởng, phát triển, sinh sản và cảm ứng có tác động trở lại đối với quá trình trao đổi chất và chuyển hóa năng lượng trong cơ thể sinh vật.
Cơ thể là một thể thống nhất, vì tất cả các cơ quan, bộ phận trong một cơ thể dều có sự liện quan tới nhau, tuy là mỗi bộ phận có một chức năng riêng biệt nhưng chúng đều ảnh hưởng tới nhau rất mật thiết, cụ thể nếu một bộ phận hay một cơ quan nào đó hoạt động không tốt thì cơ quan kia cũng sẽ không hoạt động hết hiệu quả
thể người là 1 hệ thống nhất vì trong cơ thể nguwoif các cơ quan đều được liên kết, có quan hệ chặt chẽ với nhau thực hiện các hoạt động sống của cơ thể. phối hiwpwj với nhau thực hiện các hoạt động