chứng minh rằng: 1 trong những yếu tố tạo sức hấp dẫn của văn bản là nghệ thuật châm biếm sắc sảo
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau :
- Xây dựng, đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.
- Sự đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.
- Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.
- Giọng điệu trào phúng, châm biếm, mỉa mai để nói lên bản chất bọn thực dân: “Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu...”, đùng một cái... được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”
- Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ nằm ở:
+ Trí tưởng tượng sáng tạo, bay bổng của nhà thơ
+ Cảm xúc dồi dào, ngòi bút phóng khoáng đã tạo ra cuộc trò chuyện tưởng tượng lý thú, hấp dẫn
+ Thái độ sống "ngông" của tác giả tạo ra giọng điệu ngang tàng khác thường
+ Có những cách tân mới khi thể hiện cái "tôi"- khác với thơ Đường cổ điển.
Bố cục của các phần trong chương được kết cấu theo:
+ Trình tự thời gian: trước, trong, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
+ Các chương tập trung tố cáo tội ác của việc bắt lính phục vị chiến tranh, tố cáo sự lừa bịp trơ trẽn, dã man của bọn thống trị.
+ Làm nổi bật sự mâu thuẫn, dối trá của bọn thực dân giữa lời nói và việc làm.
+ Thảm cảnh chết oan thê thảm của người dân "bản xứ".
- Nghệ thuật: châm biếm, đả kích sắc xảo của tác giả thể hiện chủ yếu qua:
+ Đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.
+ Ngôn từ của tác giả sâu sắc khi châm biếm, đả kích chính sách và giọng điệu lừa bịp của bọn thực dân: ngôn ngữ có sức gợi hình.
+ Sự đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.
+ Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.
→ Nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc ngắn gọn, xúc tích, bằng chứng thuyết phục, đa dạng về cách nói. Văn chính luận mà hàm chứa tình cảm, giàu hình ảnh.
Bài 1 :
Các biện pháp nghệ thuật cùng được sử dụng trong bốn bài:
+ Sử dụng thể thơ lục bát truyền thống.
+ Sử dụng phép liệt kê.
+ Sử dụng phép ẩn dụ, tượng trưng, nói ví von.
+ Lối nói tương phản.
+ Giọng điệu châm biếm, giễu nhại.
Bài 2 :
– Đối tượng châm biếm:
+ Những loại người có thói hư tật xấu trong xã hội.
+ Những thói hư tật xấu, hủ tục trong xã hội.
– Nội dung châm biếm:
+Những thói xấu trong xã hội: lười biếng, sĩ diện hão, mê tín dị đoan, giấu dốt,…
+ Những mặt trái, mặt khuất của xã hội: sự bất công, những hủ tục, luật lệ làng xã rườm rà,…
-hình thức gây cười :
+ Lối nói phóng đại, ẩn dụ, tượng trưng.
+ Phép tương phản, đối lập.
- Bài thơ được viết như một lời tâm sự, trả lòng của tác giả và những yếu tố nghệ thuật về ngôn ngữ, sức tưởng tượng… đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ:
- Làm nên sức hấp dẫn của bài thơ là ở hồn thơ lãng mạn bay bổng ở cái “ngông”, trí tưởng tượng lại phong phú, kì diệu. Chất mộng ảo, chất ngông thấm đẫm bài thơ.
- Lời thơ giản dị, trong sáng, giàu sức biểu cảm, đa dạng trong lối biểu hiện (khi than, khi nhắn hỏi, khi cầu xin). Thơ còn đậm đà tính dân tộc, hầu hết là những từ thuần Việt gần gũi với đời sống.
- Sức tưởng tượng phong phú, táo bạo đã tạo được giấc mộng kì thú với những chi tiết gợi cảm và bất ngờ.
- Luật thơ Đường vẫn được tuân thủ một cách nghiêm ngặt nhưng hoàn toàn không còn gò bó, chứa đựng sự phóng túng thoải mái.
BPNT: Ẩn dụ
Lấy hình ảnh con vật để nói về con người (người nông dân trong xã hội cũ)
Là truyện cổ tích kể về nhân vật thông minh, có nhiều tình huống bất ngờ và thú vị.
Dùng câu đố thử tài, tạo tình huống thử thách nhân vật để bộc lộ tài năng, phẩm chất.
Cách dẫn dắt sự việc cùng mức độ tăng dần của những câu đố, và cách giải đố tạo tiếng cười hài hước.
1.
- Tác giả đã mở đầu bài viết về Cốm bằng những hình ảnh chi tiết: • Hương thơm của lá sen trong cơn gió mùa hè. • Hương thơm mát của bông lúa trên cánh đồng xanh => Để nhắc tới hương thơm của cốm, một thứ quà thanh nhã, tinh khiết.
- Những yếu tố tạo nên tính biểu cảm của đoạn văn:
• Hình ảnh tinh tế đầy sức gợi: hồ sen, đồng, lúa, bông lúa, giọt sữa lúa và ngào ngạt hương thơm: hương sen, hương lúa, hương sữa.
• Liên tưởng rất đẹp, rất thơ với một tấm lòng trân trọng: "Trong vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất vị ngàn hoa cỏ…".
• Giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng.
2.
Điều làm nên sự hấp dẫn của cốm Vòng là :
+ Hương thơm : hương sen, hương lúa, hương sữa
3.
Tác giả đã nhận xét: dùng hồng (quả hồng) và cốm làm đồ sêu tết là rất phù hợp. Cốm là thức dâng của trời đất, mang trong nó hương vị vừa thanh nhã, vừa đậm đà của đồng nội, có thể lấy làm thứ biểu trưng cho xứ sở chuyên trồng lúa nước như nước ta. Thứ lễ vật ấy lại đem sánh với quả hồng với ý nghĩa biểu trưng cho sự hoà hợp tốt đôi thì thật đúng là một thứ lễ nghi đầy ý nghĩa. Sự hoà hợp và tương xứng của hồng và cốm đã được tác giả phân tích trên phương diện màu sắc, hương vị. Màu sắc thì quý giá, hài hoà; hương vị thì hoà hợp và nâng đỡ. Đó đúng là một phong tục đẹp của nhân dân ta.
Đây là đoạn văn mà tác giả Thạch Lam nêu lên ý nghĩa, giá trị và hương vị của món quà cốm. • Giá trị: Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước. • Ý nghĩa: Cốm là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh. • Hương vị: Cốm mang trong mình hương vị tất cả cái mộc mạc giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam. => Đoạn văn ngắn nhưng ý nghĩa khái quát cao.
Có thể thấy sự tinh tế của ngòi bút Thạch Lam thông qua đoạn miêu tả và bộc lộ cảm xúc khi sữa lúa hình thành làm nên hạt lúa non. Từ đó mà làm nên hạt cốm. Sự tinh tế còn thể hiện rõ khi tác giả bộc lộ cảm xúc về sự hài hoà giữa hồng và cốm, trong đoạn bàn về cách thưởng thức cốm. Phải là người tinh tế lắm, am hiểu và nhạy cảm lắm mới có thể thể hiện giá trị của một thứ quà bình dị mà thanh khiết, độc đáo như vậy.
Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc là một tác phẩm giàu ý nghĩa về mặt chính trị và lịch sử. Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là nghệ thuật châm biếm trào phúng sắc sảo.
Nghệ thuật trào phúng và ngòi bút châm biếm sắc sảo đã được thể hiện ở ngay cách tác giả đặt tiêu đề: Thuế máu. Bên cạnh những thứ thuế như thuế rượu, thuế muối, thuế gạo, nhân dân ta thời kì ấy còn phải gánh chịu một thứ thuế kinh khủng, tàn nhẫn hơn, đó là thuế được trả bằng máu. Như vậy, qua tiêu đề vô cùng súc tích, ngắn gọn, người đọc đã hình dung được phần nào về tình cảnh khốn khổ, tội nghiệp của nhân dân ta khi Pháp xâm lược và cai trị. Đồng thời, nhan đề ấy cũng bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân.
Nghệ thuật châm biếm và trào phúng tiếp tục được tô đậm hơn nữa khi tác giả vạch trần những thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân đối với người dân thuộc địa. Trước chiến tranh, họ bị coi là giống người hạ đẳng, là “An- Nam- mít da đen bẩn thỉu”, chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của quan cai trị, bị đối xử đánh đập như súc vật. Rồi khi chiến tranh vui tươi bùng nổ, các quan cai trị lập tức đổi thái độ, gọi người bản xứ là: con yêu, bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Chiến tranh kết thúc, họ lại trở về là thân phận nô lệ ban đầu. Sự tương phản đau đớn ấy đã được thể hiện bằng giọng điệu mỉa mai, châm biếm sự giả dối, thâm độc của chính quyền thực dân. “Chế độ lính tình nguyện” mang sắc thái trào phúng tự nhiên, ở đây là bắt buộc, cưỡng bức chứ không hề do người dân thuộc địa sẵn sàng, phấn khởi lên đường. Với sự ra đời của chế độ này, chính quyền thực dân tiến hành lùng ráp, vây bắt, cưỡng bức người ta phải đi lính. Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu, sẵn sàng trói, xích nhốt người ta như nhốt súc vật, đàn áp dã man nếu như có chống đối. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với luận điệu của chính quyền thực dân: hứa hậu đãi sau chiến tranh, rêu rao về sự tình nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Đó là những chiêu trò lừa dối, mị dân, đểu cáng để che đậy bản chất tàn ác, dã man của chính quyền thực dân khi biến những người dân bản xứ thành vật hy sinh. Bằng lập luận phản bác, mâu thuẫn, trào phúng và câu hỏi tu từ, điệp từ, tác giả tiếp tục lột cái mặt nạ vô nhân đạo, tráo trở, tàn nhẫn của thực dân Pháp. Những người dân thuộc địa sau khi trở về từ chiến tranh bị tước đoạt hết của cải, bị đối xử, đánh đập thô bỉ như súc vật. Họ lại trở về vị trí hèn hạ ban đầu: giống người hạ đẳng và bẩn thỉu, bị lừa dối, áp bức và rơi vào tình cảnh cùng quẫn, trở thành nạn nhân của chính sách cai trị tàn bạo, nham hiểm của Pháp. Sự tráo trở, tàn nhẫn, độc ác đó không chỉ đối với người dân bản xứ mà còn với ngay cả những người Pháp lương thiện. Bằng việc cấp môn bài bán lẽ thuốc phiện, chính quyền thực dân đã đầu độc con người và lôi kéo nạn nhân đáng thương vào tội ác.
Nghệ thuật châm biếm đả kích sâu cay của tác phẩm đã được thể hiện qua những hình ảnh xác thực, sinh động, giàu ý nghĩa biểu cảm và có ý nghĩa tố cáo. Qua nghệ thuật châm biếm và giọng điệu trào phúng sâu sắc, mỉa mai, ta đã có một cái nhìn cụ thể về bộ mặt độc ác, giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp số phận bi thảm của những người dân thuộc địa bị bóc lột “thuế máu”.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” là một tác phẩm mà Bác sáng tạo nhằm mục đích để vạch trần, tố cáo chế độ thực dân giả dối, tàn bạo đồng thời khích lệ, kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa vùng dậy đấu tranh. Chương I của tác phẩm với nhan đề “Thuế máu” là một chương tố cáo sâu sắc tội ác của bọn thực dân đối với các nước thuộc địa khi chiến tranh xảy tới và một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của “Thuế máu” là nghệ thuật châm biếm, trào phúng sắc sảo.
Nghệ thuật châm biếm, trào phúng là nghệ thuật luôn hướng tới việc tạo ra tiếng cười nhằm để châm biếm, đả kích đối tượng trào phúng. Cách dùng nghệ thuật trào phúng để châm biếm, lên án cái xấu không chỉ có tác dụng vạch trần bản chất đối tượng một cách sâu sắc nhất mà còn khiến cho tác phẩm có giá trị biểu đạt cao, thể hiện được thái độ tác giả.
Trong “Thuế máu”, Người liên tục sử dụng những liên tưởng độc đáo, dùng cách nói trào phúng sắc sảo để lập luận. Ngay trong đoạn đầu, Người đã sử dụng câu từ hết sức châm biếm, không quá cay nghiệt mà vẫn khiến cho kẻ thù phải cay đắng trong cách chỉ ra sự đối lập giữa cách đối xử của thực dân Pháp đối với người dân thuộc địa trước và khi chiến tranh xảy đến: “Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "Annamít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do", tác giả dùng những cách gọi hết sức hình ảnh khi gọi những người dân thuộc địa là những đứa "con yêu", những người "bạn hiền", rồi "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do” làm nổi bật lên sự bịp bợm, xáo trá của thực dân Pháp. Rồi khi nói về số phận của họ: “Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kỳ diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Bancăng, lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì đã anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mácnơ, hoặc trong bãi lầy miền Sămpanhơ, để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế”. Một số phận thật bi đát nhưng theo cách nói của Người, người đọc không bị quá ghê rợm bởi số phận thảm thương của họ mà ghê rợn chính những kẻ đã đẩy những con người nhỏ bé vô tội vào vũng lầy đâu đớn.
Và rất nhiều những đoạn trào phúng gây ấn tượng khác: “Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: vị "chúa tỉnh"- mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị "chúa tỉnh"- ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở kiểu D(4) thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền” hay “Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nêgrô lẫn người "Annamít" mặc nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu". Những cách nói trào phúng độc đáo này đã dễ dàng tiếp cận bạn đọc, khiến ai cũng dễ dàng tiếp thu thông điệp mà tác phẩm truyền tải.
Quả vậy, một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của “Thuế máu” là nghệ thuật châm biếm, trào phúng sắc sảo, chính nghệ thuật châm biếm, trào phúng của Bác đã đưa người đọc dễ dàng nhận ra bản chất dối bịp của chế độ thực dân đồng thời làm cho nội dung trở nên hấp dẫn và sức hấp dẫn này sâu đậm mãi về sau.