Các nhóm chuẩn bị và xây dựng 1 đoạn văn thể hiện cảm nhận của từng nhóm sau khi học xong văn bản tức nước vỡ bờ.
HELP ME
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thần, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tốđã phản ảnh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kì” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chất tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết.
Với số trang hạn chế, nhưng Tất đèn đã mô tả khá đầy đủ mọi mặt của những lực lượng thông trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đấy là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ nhờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên, bòn rút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng, Ngô Tất Tốbằng ngòi bút thầm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân - tác giả của những tấm thẻ SƯU. Bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ Cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng.
Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tốđã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn.Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là “tất cả của Tắt đèn”.
Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa... Viết về số phận của phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tốđã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo, quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này.
Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thống, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp, nết na.Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương, trân trọng.
Chị Dậu - một phụ nữ có tấm lòng vị tha, yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách để cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tay sai... cũng làm cho người đọc yêumến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ.
Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phải bán đứa con đầu, chị như cắt đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đối với “sợi dây thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tửu, thằng Dần, cái Tí.
Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khỏi bỡ ngỡ trước bao mưu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phải là người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quế, nhìn bọn tai to mặt lớn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều... Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt...
Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua - phải nộp một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại... tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình.
Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phải điêu đứng vì số tiền nộp sưu, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giấy bạc vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng.
Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm... nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị sống ở nơi tăm tốibị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Tóm lại, bằng thái độ trân trọng của sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tốđã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi đau xót, đặc biệt với những phẩm chất trong sạch. Chính những yếu tốtích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muôn “tung ra khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuần), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân.
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thông.
Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đối lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa.
Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khắc họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vậtchính diện đẹp người, đẹp nết... tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn... tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biến đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh...).
Nhân vật trong Tắt đèn phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ.
Bạn viết theo cảm nhận của cai lệ hoặc chị Dậu hoặc sự pản kháng của chi Dậu ý
Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thần, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tốđã phản ảnh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kì” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chất tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết.
Với số trang hạn chế, nhưng Tất đèn đã mô tả khá đầy đủ mọi mặt của những lực lượng thông trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đấy là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ nhờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên, bòn rút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng, Ngô Tất Tốbằng ngòi bút thầm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân - tác giả của những tấm thẻ SƯU. Bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ Cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng.
Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tốđã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn.Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là “tất cả của Tắt đèn”.
Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa... Viết về số phận của phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tốđã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo, quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này.
Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thống, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp, nết na.Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương, trân trọng.
Chị Dậu - một phụ nữ có tấm lòng vị tha, yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách để cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tay sai... cũng làm cho người đọc yêumến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ.
Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phải bán đứa con đầu, chị như cắt đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đối với “sợi dây thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tửu, thằng Dần, cái Tí.
Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khỏi bỡ ngỡ trước bao mưu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phải là người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quế, nhìn bọn tai to mặt lớn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều... Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt...
Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua - phải nộp một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại... tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình.
Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phải điêu đứng vì số tiền nộp sưu, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giấy bạc vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng.
Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm... nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị sống ở nơi tăm tốibị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Tóm lại, bằng thái độ trân trọng của sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tốđã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi đau xót, đặc biệt với những phẩm chất trong sạch. Chính những yếu tốtích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muôn “tung ra khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuần), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân.
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thông.
Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đối lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa.
Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khắc họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vậtchính diện đẹp người, đẹp nết... tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn... tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biến đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh...).
Nhân vật trong Tắt đèn phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ.
Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thần, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tốđã phản ảnh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kì” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chất tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết.
Với số trang hạn chế, nhưng Tất đèn đã mô tả khá đầy đủ mọi mặt của những lực lượng thông trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đấy là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ nhờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên, bòn rút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng, Ngô Tất Tốbằng ngòi bút thầm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân - tác giả của những tấm thẻ SƯU. Bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ Cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng.
Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tốđã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn.Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là “tất cả của Tắt đèn”.
Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa... Viết về số phận của phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tốđã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo, quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này.
Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thống, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp, nết na.Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương, trân trọng.
Chị Dậu - một phụ nữ có tấm lòng vị tha, yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách để cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tay sai... cũng làm cho người đọc yêumến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ.
Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phải bán đứa con đầu, chị như cắt đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đối với “sợi dây thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tửu, thằng Dần, cái Tí.
Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khỏi bỡ ngỡ trước bao mưu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phải là người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quế, nhìn bọn tai to mặt lớn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều... Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt...
Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua - phải nộp một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại... tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình.
Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phải điêu đứng vì số tiền nộp sưu, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giấy bạc vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng.
Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm... nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị sống ở nơi tăm tốibị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Tóm lại, bằng thái độ trân trọng của sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tốđã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi đau xót, đặc biệt với những phẩm chất trong sạch. Chính những yếu tốtích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muôn “tung ra khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuần), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân.
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thông.
Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đối lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa.
Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khắc họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vậtchính diện đẹp người, đẹp nết... tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn... tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biến đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh...).
Nhân vật trong Tắt đèn phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ.
"Tức nước vỡ bờ", câu tục ngữ nêu một quy luật của tự nhiên, mà có ý nghĩa xã hội sâu sắc, thâm thuý vô cùng. Tác giả sách giáo khoa đã vận dụng cách nói dân gian ngắn gọn, rất thông minh ấy để đặt tên cho chương XVIII cùa tiểu thuyết Tắt đèn khi chọn đưa vào sách giáo khoa từ buổi đầu xây dựng nhà trường XHCN Việt Nam, cũng thật sâu sắc và thâm thuý vô cùng. Nhờ vậy, ngày nay đọc lại chương truyện này, chúng ta dễ dàng định được hướng đi, để cảm nhận những tình huống hấp dẫn, những hình tượng nhân vật sống động, điển hình. Những điều gì làm "tức nước" ? Khi nào thì nước phá vỡ bờ ? Nước phá, bờ vỡ... ra sao ? Ý nghĩa của cuộc công phá và sự đổ vỡ ? Nghĩa đen, nghĩa bóng ? Quy luật của tự nhiên, quy luật của xã hội ?
Những điều gì làm tức nước ? Trước hết, ấy là dồn dập những trận dông tố bất công phi lí từ chính sách thuế thân quái gở của thực dân Pháp, đến những thủ đoạn bóc lột trắng trợn của gia đình nhà Nghị Quế, những hành động dã man của bọn lí dịch trong làng dội xuống gia đình chị Dậu. Chính chị Dậu - nạn nhân trực tiếp của những cơn dông tố ấy - ở giữa nhà lí trưởng, đã phải hét to lên những lời uất nghẹn này : "Ôi trời ơi ! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ nộp tiền sưu cho chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa ! Khốn nạn thân tôi ! Trời ơi ! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở trời ?"
Ba lần người nông dân khốn khổ ấy kêu trời, hỏi đất ! Nhưng làm gì có trời để kêu, để hỏi ? Chỉ có bọn đầu trâu mặt ngựa mà thôi. Chúng không có tai để nghe, chúng không có tim để rung cảm. Chúng chỉ biết văng tục, chửi bới, ức hiếp, đánh đập, hành hạ người khác một cách dã man.
Đại diện cho bọn trâu ngựa ấy là tên cai lệ và tên người nhà lí trưởng. Chúng chính là những cơn bão tố, những ngọn hồng thuỷ trực tiếp làm cho cái mặt nước cuộc đời, những con sóng căm uất của chị Dậu đầy lên, căng ứ không thể kìm nén được ! Khi anh Dậu vừa tỉnh lại, run rẩy cất bát cháo kề vào miệng định cố ăn - như cố níu giữ chút hơi tàn của cuộc sống - thì chúng sầm sập tiến vào nhà, với roi song tay thước, dây thừng, hệt như những con quỷ dữ từ âm phủ hiện về. "Thằng kia ! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à ? Nộp tiền sưu ! Mau !". Cái giọng khàn khàn do hút nhiều xái cũ của tên cai lộ thổi tắt phụt chút hơi tàn của anh Dậu "khiến anh lăn đùng ra đó, không nói dược câu gì". Rồi tới tấp, dồn dập, hắn quát mắng, chửi bới, đe doạ chị Dậu. Trong khi người đàn bà khốn khổ vừa ôn tồn, vừa tha thiết xin khất thuế, thì hắn cứ khăng khăng một mực đòi cho kì được. Hắn gọi chị Dậu là "mày", xưng là "cha", rồi xưng "ông". Hắn doạ "dỡ nhà", rồi doạ "trói cổ" anh Dậu điệu ra đình. Cuối cùng, hắn giật phắt cái thừng trong tay người nhà lí trưởng, sầm sập đến chỗ anh Dậu. Và trắng trợn, tàn bạo hơn nữa, tên ác quỷ ấy đã... đánh chị Dậu. Hắn "bịch vào ngực chị mấy bịch", rồi "tát vào mặt chị một cái đánh bốp"... Mỗi lần chị Dậu van xin, ngăn cản hắn, đỡ đòn cho anh Dậu, là mỗi lần tên cai lệ hung hăng thêm. Vừa đánh, vừa chửi chị Dậu, hắn vừa "sấn đến", "nhảy vào" cạnh anh Dậu. Nhà văn đã sử dụng những từ ngữ thật sát hợp, ngắn gọn, miêu tả thật chính xác cái bản chất ác thú, không còn tính người của tên tay sai mạt hạng trong cái guồng máy bạo tàn của bọn quan lại bấy giờ. Nổi bật là những lời nói thô lỗ của hắn, như câu "Mày định nói cho cha mày nghe đấy à...", "trói cổ thằng chổng nó lại"... và những từ tượng thanh "bịch... bịch"... "... bốp". Chị Dậu càng lùi, càng nhịn, thì tên cai lệ càng lấn tới. Tinh huống truyện cứ căng thẳng mãi lên. Bản chất súc vật của tên cai lộ phơi bày trắng trợn. Bão táp, mưa sa đã dến độ phũ phàng, bức bối. Cơn lũ đã lên đến đỉnh. Nước đã tức ! Sau cái tát giáng xuống chị Dậu, tên cai lệ đã bị chị "túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa... ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chổng kẻ thiếu sưu". Thảm hại thay cho một kẻ cậy thế, cậy quyền, mượn uy danh lũ thống trị ức hiếp người dân ! Cái hình ảnh "ngã chỏng quèo", mấy tiếng nói "nham nhảm" và cả cái hành động "chạy thoát ra đình" để trình báo cấp trên của cai lệ được nhà văn miêu tả thật đặc sắc. Đó là những nét điển hình của bọn lính tráng, tay sait Chúng chỉ mạnh ở cường quyền, bạo lực, còn bản chất thì yếu hèn, xấu xa. Chúng xấu từ hình dáng bên ngoài đến nhân cách bên trong. Cai lộ là thế. Tên người nhà lí trưởng cũng vậy. Sự thất bại của chúng sau trận hành hung và vật lộn với chị Dậu là lời cảnh cáo đối với những kẻ bạo tàn, cũng là sự mỉa mai, giễu cợt mạnh mẽ mà nhà văn nhằm vào cái bộ máy thống trị với một lũ quan lại, cường hào, tay chân lớn nhỏ lúc bấy giờ. Chúng hung hăng, tàn bạo, xảo quyệt, độc ác đến mấy, rồi cũng phải "ngã chỏng quèo" trước người đàn bà lực điền, giàu tình thương và ngang tàng, bất khuất. Có thể nói, chính sách thuế thân vô lí, thuế đánh vào mạng người sống và cả người chết, cùng những hành động ức hiếp nhân dân của bọn thống trị không có tính người là nguyên cớ làm cho... nước bị tức, xô đẩy, dồn ép con người vào cái tình thế bức bách, không sao kìm nén, chịu đựng được. Nước bị tức thì phải nổi sóng, tràn ra. Và phá... vỡ bờ !
Nước tức, phá vỡ bờ như thế nào ? Chị Dậu là biểu tượng cho những đợt sóng cồn tức nước và sức mạnh công phá, đạp vỡ mọi bãi bờ. Giữa cơn hồng thuỷ sưu thuế khốc liệt ở làng Đông Xá những ngày ấy, chị Dậu đã chịu bao nỗi đắng cay, tủi nhục. Nào bán con, bán chó, bán hai gánh khoai - những của cải cuối cùng của gia đình. Nào chăm sóc người chồng bị ốm đau, bị dánh trói. Nào dỗ con nhỏ, nào cầu cạnh nhà Nghị Quế, van xin lí trưởng, rồi than khóc tru tréo, kêu trời, hỏi trời,... Mọi việc ấy, chị đều đảm đương, mọi khổ đau ấy, chị đều chấp nhận. Không một chút phàn nàn với chồng con, không một lời ân hận vé vai trò, trách nhiệm của người vợ, người mẹ - giờ đây chị trở thành trụ cột trong gia đình. Tất cả cái gánh nặng gia đình đè lên vai, chị vẫn bình tĩnh lo toan, cố gắng chu tất mọi việc. Tinh thương, tấm lòng vị tha, đức hi sinh và nghị lực,... đã giúp cho người phụ nữ nông dân ấy đứng vững trước mọi bão tố.
Đến giây phút căng thẳng nhất - lúc anh Dậu ngất như một cái xác bị bọn tuần đinh quẳng vể nhà - chị vẫn cố gắng giữ bình tĩnh để chăm sóc, cứu anh khỏi tay thần chết. Buổi sáng hôm ấy, chị mới dịu dàng làm Sao ! Nấu xong cháo, quạt nguội, bưng bát cháo đến tận chỗ chồng nằm, chị động viên anh : "Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Lúc bọn cai lệ sầm sập vào nhà, chị vẫn dịu dàng và bình tĩnh. Nói với bọn chúng, giọng chị run run : "Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi rihư thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu"... Lời nói thật rành mạch, rất có lí, có tình. Trong ứng xử với bọn cai lệ, chị Dậu cũng luôn giữ thái độ nhã nhặn, nhún nhường, đủ tình, đủ lí. Khi bọn cai lệ nói năng thô tục, chị Dậu vẫn gọi chúng là "ông", "các ông", xưng là "cháu", "nhà cháu". Hai lần chị xin chúng : "Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất"..., "Nhà cháu đã không có...
Xin ông trông lại !". Lần thứ ba, chị van lạy chúng : "Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho !". Như vậy, người nông dân khốn khổ ấy đã cố kìm nén, cố chịu đựng mọi nỗi đau khổ kể cả bị sỉ nhục, bị chửi bới. Phần vì tình thương chồng, phần cũng vì tôn trọng luật pháp, nể sợ người nhà nước đang thi hành nhiệm vụ. "Nước" cố giữ mình trong khuôn khổ tự nhiên, trong phép tắc của xã hội, của trật tự trên dưới. Thái độ ấy của chị Dậu đáng thông cảm biết bao !
Nhưng, "cây muốn lặng, mà gió chẳng đừng", "nước" muốn ở yên mà bão tố cứ quật xuống. Chị Dậu cố chịu đựng nhưng bọn cai lệ vẫn làm càn. Thế là, "nước" đã tức. Sau khi bị tên cai lệ đánh và đe doạ không tha anh Dậu, chị Dậu tức quá, không thể chịu được... cự lại : "Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ !". Và, sau khi tên cai lệ tát chị, nhảy vào cạnh anh Dậu, người đàn bà giàu tình thương chồng và ngùn ngụt lòng căm giận đã đứng thẳng, nghiến hai hàm răng, ngăn cản và thách thức kẻ thù :
-Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem !
Thế là tất cả đã thay đổi. "Nước" đã nổi sóng. Nhân vật thay đổi tính cách. Ngôn ngữ vSn chương cũng chuyển sang giọng điệu khác. Thể hiện lời nói của chị Dậu, nhà văn dùng các từ thông tục "mày", "bà" và những câu ngắn, nhịp nhanh ("... ông không được phép !... bà cho mày xem"...). Chị Dậu - với sức khoẻ của người đàn bà lực điền, sự bùng cháy của lòng uất hận và của tình thương để bảo vệ chồng và tự vệ, đã vùng lên nhanh nhẹn, táo tợn, ngang tàng, trong chốc lát đã quật ngã hai tên ác ôn dầu trâu mặt ngựa. Tới đây, tác giả chuyển từ văn kể sang văn miêu tả thật sống động, hào hứng. Cuộc tỉ thí chia làm hai hiệp. Hiệp một : chị Dậu túm cổ tên cai lệ, ấn dúi ra cửa khiến hắn ngã chỏng quèo. Hiệp hai : chị Dậu nắm được gậy của tên người nhà lí trưởng, du đẩy, rồi buông gậy ra, áp vào vật nhau... Rồi chị Dậu "túm tóc lẳng cho một cái", dối thủ ngã nhào ra thềm. Rõ ràng, trong cả hai hiệp, người đàn bà nhà quê ấy đểu chủ động, bình tĩnh, nhanh nhẹn, gan góc, dũng cảm. Chị đã chiến thắng giòn giã. Viết đoạn văn này, lựa chọn được những từ ngữ đúng nhất, những câu vãn đẹp nhất dành cho nhân vật yêu mến của mình, hẳn nhà văn Ngô Tất Tố rất hả hê, sảng khoái ! Ông như nhập hồn cùng nhân vật để đồng cảm, đồng tình, vừa tả, vừa kể, vừa ca ngợi, khích lệ. Người đọc chúng ta, khi đọc truyện, cũng đồng cảm với nhà văn, đổng cảm với nhân vật, trân trọng nhà văn, yêu mến nhân vật. Chị Dậu, đến phút này đã đổi thay căn bản : từ van xin lễ phép, nhẫn nhục chịu đựng, chị trở thành con người quyết liệt, liều lĩnh, muốn chống lại tất cả, muốn quật ngã tất cả. Khi nghe anh Dậu than thở, can ngăn, chị Dậu đã trả lời : "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được". Lời nói mới rắn rỏi, khoẻ khoắn làm sao ! Người, nông dân ấy dám chấp nhận tất cả, dám thách thức tất cả. Không phải chỉ là tiếng nói của một con người mà là tiếng nói, là bản lĩnh của vạn triệu con người bị áp bức lúc bấy giờ. Đó cũng chính là chân lí muôn đời trong cuộc sống. Với chị Dậu, đến câu nói ấy, nhà văn đã hoàn tất công việc khắc hoạ một hình tựợng. Chị Dậu là điển hình xuất sắc của người phụ nữ nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tuy đói nghèo, vẫn giàu tình thương và tiềm ẩn chí căm thù, tinh thần bất khuất, vẫn đầy đủ sức mạnh để chống lại cường quyền, áp bức. Rõ ràng, nếu gió mưa của bạo lực, bất công cứ liên tiếp quật xuống, làm cho những đấu khổ và lòng uất hận dâng đầy, thì sẽ "tức nước'.' và "vỡ bờ". Khi nước đã phá bờ rồi, nó không hề biết sợ, nó có thể quật ngã tất cả, phá vỡ tất cả.
Trở lại với câu tục ngữ tiêu đề của đoạn trích này, suy ngẫm về nghĩa đen, nghĩa bóng của ngôn từ, hình ảnh, chúng ta vừa thấm thìa cái quy luật diệu kì của tự nhiên vừa cảm mến, kính phục ngòi bút hiện thực đầy tính nhân đạo và tính chiến đấu của Ngô Tất Tố. Qua đoạn trích, cũng như cả cuốn tiểu thuyết Tắt đèn, nhà văn giúp chúng ta hiểu sâu sắc một quy luật xã hội : "Có áp bức thì có đấu tranh, sự áp bức càng tàn nhẫn, thắt ngặt thì cuộc vùng lên, đấu tranh chống lại càng mạnh mẽ". Có thể nói đoạn trích Tức nước vỡ bờ được viết bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đã vạch trần bộ mặt tàn ác bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời. Xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô vàn cực khổ, khiến họ phải liều mạng chống lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn và bản lĩnh gan góc, dũng cảm của người phụ nữ nông dân giàu yêu thương, có sức sống tiềm tàng không dễ gì khuất phục.
Ra đời trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tiểu thuyết Tắt đèn có tác dụng giáo dục, thức tỉnh bạn đọc mạnh mẽ. VI thế, nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét : "Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nổi loạn"..., "Cách viết lách như thế, cách dựng truyện như thế, không phải là phát động quần chúng nông dân chống quan Tây, chống vua ta thì còn là cái gì nữa(1)". Trong chương truyện thứ XVIII nàỵ, chị Dậu đã "nổi loạn", chống lại bọn tay sai của "quan Tây" và "vua ta". Song đó là sự vùng lén tự phát, bột phát. Muốn thực sự được giải phóng để vĩnh viễn thoát khỏi sự hánh hạ của bọn cai lệ, của ách thống trị thực dãn, phong kiến, chị Dậu cũng như những người nông dân khác và cả dân tộc ta phải biết tổ chức nhau lại, phải làm cách mạng, đi theo cách mạng. Khi viết Tắt đèn, nhà văn Ngô Tất Tố chưa được giác ngộ cách mạng. Song ông đã phát hiện những tiềm năng cách mạng trong quần chúng nông dân, phát động họ chống quan Tây, vua ta. Ngòi bút của ông sắc mạnh như gươm giáo. Và ông xứng đáng được xem là đồng minh tích cực của cách mạng !
"Tức nước vỡ bờ", câu tục ngữ nêu một quy luật của tự nhiên, mà có ý nghĩa xã hội sâu sắc, thâm thuý vô cùng. Tác giả sách giáo khoa đã vận dụng cách nói dân gian ngắn gọn, rất thông minh ấy để đặt tên cho chương XVIII cùa tiểu thuyết Tắt đèn khi chọn đưa vào sách giáo khoa từ buổi đầu xây dựng nhà trường XHCN Việt Nam, cũng thật sâu sắc và thâm thuý vô cùng. Nhờ vậy, ngày nay đọc lại chương truyện này, chúng ta dễ dàng định được hướng đi, để cảm nhận những tình huống hấp dẫn, những hình tượng nhân vật sống động, điển hình. Những điều gì làm "tức nước" ? Khi nào thì nước phá vỡ bờ ? Nước phá, bờ vỡ... ra sao ? Ý nghĩa của cuộc công phá và sự đổ vỡ ? Nghĩa đen, nghĩa bóng ? Quy luật của tự nhiên, quy luật của xã hội ?
Những điều gì làm tức nước ? Trước hết, ấy là dồn dập những trận dông tố bất công phi lí từ chính sách thuế thân quái gở của thực dân Pháp, đến những thủ đoạn bóc lột trắng trợn của gia đình nhà Nghị Quế, những hành động dã man của bọn lí dịch trong làng dội xuống gia đình chị Dậu. Chính chị Dậu - nạn nhân trực tiếp của những cơn dông tố ấy - ở giữa nhà lí trưởng, đã phải hét to lên những lời uất nghẹn này : "Ôi trời ơi ! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ nộp tiền sưu cho chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa ! Khốn nạn thân tôi ! Trời ơi ! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở trời ?"
Ba lần người nông dân khốn khổ ấy kêu trời, hỏi đất ! Nhưng làm gì có trời để kêu, để hỏi ? Chỉ có bọn đầu trâu mặt ngựa mà thôi. Chúng không có tai để nghe, chúng không có tim để rung cảm. Chúng chỉ biết văng tục, chửi bới, ức hiếp, đánh đập, hành hạ người khác một cách dã man.
Đại diện cho bọn trâu ngựa ấy là tên cai lệ và tên người nhà lí trưởng. Chúng chính là những cơn bão tố, những ngọn hồng thuỷ trực tiếp làm cho cái mặt nước cuộc đời, những con sóng căm uất của chị Dậu đầy lên, căng ứ không thể kìm nén được ! Khi anh Dậu vừa tỉnh lại, run rẩy cất bát cháo kề vào miệng định cố ăn - như cố níu giữ chút hơi tàn của cuộc sống - thì chúng sầm sập tiến vào nhà, với roi song tay thước, dây thừng, hệt như những con quỷ dữ từ âm phủ hiện về. "Thằng kia ! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à ? Nộp tiền sưu ! Mau !". Cái giọng khàn khàn do hút nhiều xái cũ của tên cai lộ thổi tắt phụt chút hơi tàn của anh Dậu "khiến anh lăn đùng ra đó, không nói dược câu gì". Rồi tới tấp, dồn dập, hắn quát mắng, chửi bới, đe doạ chị Dậu. Trong khi người đàn bà khốn khổ vừa ôn tồn, vừa tha thiết xin khất thuế, thì hắn cứ khăng khăng một mực đòi cho kì được. Hắn gọi chị Dậu là "mày", xưng là "cha", rồi xưng "ông". Hắn doạ "dỡ nhà", rồi doạ "trói cổ" anh Dậu điệu ra đình. Cuối cùng, hắn giật phắt cái thừng trong tay người nhà lí trưởng, sầm sập đến chỗ anh Dậu. Và trắng trợn, tàn bạo hơn nữa, tên ác quỷ ấy đã... đánh chị Dậu. Hắn "bịch vào ngực chị mấy bịch", rồi "tát vào mặt chị một cái đánh bốp"... Mỗi lần chị Dậu van xin, ngăn cản hắn, đỡ đòn cho anh Dậu, là mỗi lần tên cai lệ hung hăng thêm. Vừa đánh, vừa chửi chị Dậu, hắn vừa "sấn đến", "nhảy vào" cạnh anh Dậu. Nhà văn đã sử dụng những từ ngữ thật sát hợp, ngắn gọn, miêu tả thật chính xác cái bản chất ác thú, không còn tính người của tên tay sai mạt hạng trong cái guồng máy bạo tàn của bọn quan lại bấy giờ. Nổi bật là những lời nói thô lỗ của hắn, như câu "Mày định nói cho cha mày nghe đấy à...", "trói cổ thằng chổng nó lại"... và những từ tượng thanh "bịch... bịch"... "... bốp". Chị Dậu càng lùi, càng nhịn, thì tên cai lệ càng lấn tới. Tinh huống truyện cứ căng thẳng mãi lên. Bản chất súc vật của tên cai lộ phơi bày trắng trợn. Bão táp, mưa sa đã dến độ phũ phàng, bức bối. Cơn lũ đã lên đến đỉnh. Nước đã tức ! Sau cái tát giáng xuống chị Dậu, tên cai lệ đã bị chị "túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa... ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chổng kẻ thiếu sưu". Thảm hại thay cho một kẻ cậy thế, cậy quyền, mượn uy danh lũ thống trị ức hiếp người dân ! Cái hình ảnh "ngã chỏng quèo", mấy tiếng nói "nham nhảm" và cả cái hành động "chạy thoát ra đình" để trình báo cấp trên của cai lệ được nhà văn miêu tả thật đặc sắc. Đó là những nét điển hình của bọn lính tráng, tay sait Chúng chỉ mạnh ở cường quyền, bạo lực, còn bản chất thì yếu hèn, xấu xa. Chúng xấu từ hình dáng bên ngoài đến nhân cách bên trong. Cai lộ là thế. Tên người nhà lí trưởng cũng vậy. Sự thất bại của chúng sau trận hành hung và vật lộn với chị Dậu là lời cảnh cáo đối với những kẻ bạo tàn, cũng là sự mỉa mai, giễu cợt mạnh mẽ mà nhà văn nhằm vào cái bộ máy thống trị với một lũ quan lại, cường hào, tay chân lớn nhỏ lúc bấy giờ. Chúng hung hăng, tàn bạo, xảo quyệt, độc ác đến mấy, rồi cũng phải "ngã chỏng quèo" trước người đàn bà lực điền, giàu tình thương và ngang tàng, bất khuất. Có thể nói, chính sách thuế thân vô lí, thuế đánh vào mạng người sống và cả người chết, cùng những hành động ức hiếp nhân dân của bọn thống trị không có tính người là nguyên cớ làm cho... nước bị tức, xô đẩy, dồn ép con người vào cái tình thế bức bách, không sao kìm nén, chịu đựng được. Nước bị tức thì phải nổi sóng, tràn ra. Và phá... vỡ bờ !
Nước tức, phá vỡ bờ như thế nào ? Chị Dậu là biểu tượng cho những đợt sóng cồn tức nước và sức mạnh công phá, đạp vỡ mọi bãi bờ. Giữa cơn hồng thuỷ sưu thuế khốc liệt ở làng Đông Xá những ngày ấy, chị Dậu đã chịu bao nỗi đắng cay, tủi nhục. Nào bán con, bán chó, bán hai gánh khoai - những của cải cuối cùng của gia đình. Nào chăm sóc người chồng bị ốm đau, bị dánh trói. Nào dỗ con nhỏ, nào cầu cạnh nhà Nghị Quế, van xin lí trưởng, rồi than khóc tru tréo, kêu trời, hỏi trời,... Mọi việc ấy, chị đều đảm đương, mọi khổ đau ấy, chị đều chấp nhận. Không một chút phàn nàn với chồng con, không một lời ân hận vé vai trò, trách nhiệm của người vợ, người mẹ - giờ đây chị trở thành trụ cột trong gia đình. Tất cả cái gánh nặng gia đình đè lên vai, chị vẫn bình tĩnh lo toan, cố gắng chu tất mọi việc. Tinh thương, tấm lòng vị tha, đức hi sinh và nghị lực,... đã giúp cho người phụ nữ nông dân ấy đứng vững trước mọi bão tố.
Đến giây phút căng thẳng nhất - lúc anh Dậu ngất như một cái xác bị bọn tuần đinh quẳng vể nhà - chị vẫn cố gắng giữ bình tĩnh để chăm sóc, cứu anh khỏi tay thần chết. Buổi sáng hôm ấy, chị mới dịu dàng làm Sao ! Nấu xong cháo, quạt nguội, bưng bát cháo đến tận chỗ chồng nằm, chị động viên anh : "Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Lúc bọn cai lệ sầm sập vào nhà, chị vẫn dịu dàng và bình tĩnh. Nói với bọn chúng, giọng chị run run : "Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi rihư thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu"... Lời nói thật rành mạch, rất có lí, có tình. Trong ứng xử với bọn cai lệ, chị Dậu cũng luôn giữ thái độ nhã nhặn, nhún nhường, đủ tình, đủ lí. Khi bọn cai lệ nói năng thô tục, chị Dậu vẫn gọi chúng là "ông", "các ông", xưng là "cháu", "nhà cháu". Hai lần chị xin chúng : "Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất"..., "Nhà cháu đã không có...
Xin ông trông lại !". Lần thứ ba, chị van lạy chúng : "Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho !". Như vậy, người nông dân khốn khổ ấy đã cố kìm nén, cố chịu đựng mọi nỗi đau khổ kể cả bị sỉ nhục, bị chửi bới. Phần vì tình thương chồng, phần cũng vì tôn trọng luật pháp, nể sợ người nhà nước đang thi hành nhiệm vụ. "Nước" cố giữ mình trong khuôn khổ tự nhiên, trong phép tắc của xã hội, của trật tự trên dưới. Thái độ ấy của chị Dậu đáng thông cảm biết bao !
Nhưng, "cây muốn lặng, mà gió chẳng đừng", "nước" muốn ở yên mà bão tố cứ quật xuống. Chị Dậu cố chịu đựng nhưng bọn cai lệ vẫn làm càn. Thế là, "nước" đã tức. Sau khi bị tên cai lệ đánh và đe doạ không tha anh Dậu, chị Dậu tức quá, không thể chịu được... cự lại : "Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ !". Và, sau khi tên cai lệ tát chị, nhảy vào cạnh anh Dậu, người đàn bà giàu tình thương chồng và ngùn ngụt lòng căm giận đã đứng thẳng, nghiến hai hàm răng, ngăn cản và thách thức kẻ thù :
-Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem !
Thế là tất cả đã thay đổi. "Nước" đã nổi sóng. Nhân vật thay đổi tính cách. Ngôn ngữ vSn chương cũng chuyển sang giọng điệu khác. Thể hiện lời nói của chị Dậu, nhà văn dùng các từ thông tục "mày", "bà" và những câu ngắn, nhịp nhanh ("... ông không được phép !... bà cho mày xem"...). Chị Dậu - với sức khoẻ của người đàn bà lực điền, sự bùng cháy của lòng uất hận và của tình thương để bảo vệ chồng và tự vệ, đã vùng lên nhanh nhẹn, táo tợn, ngang tàng, trong chốc lát đã quật ngã hai tên ác ôn dầu trâu mặt ngựa. Tới đây, tác giả chuyển từ văn kể sang văn miêu tả thật sống động, hào hứng. Cuộc tỉ thí chia làm hai hiệp. Hiệp một : chị Dậu túm cổ tên cai lệ, ấn dúi ra cửa khiến hắn ngã chỏng quèo. Hiệp hai : chị Dậu nắm được gậy của tên người nhà lí trưởng, du đẩy, rồi buông gậy ra, áp vào vật nhau... Rồi chị Dậu "túm tóc lẳng cho một cái", dối thủ ngã nhào ra thềm. Rõ ràng, trong cả hai hiệp, người đàn bà nhà quê ấy đểu chủ động, bình tĩnh, nhanh nhẹn, gan góc, dũng cảm. Chị đã chiến thắng giòn giã. Viết đoạn văn này, lựa chọn được những từ ngữ đúng nhất, những câu vãn đẹp nhất dành cho nhân vật yêu mến của mình, hẳn nhà văn Ngô Tất Tố rất hả hê, sảng khoái ! Ông như nhập hồn cùng nhân vật để đồng cảm, đồng tình, vừa tả, vừa kể, vừa ca ngợi, khích lệ. Người đọc chúng ta, khi đọc truyện, cũng đồng cảm với nhà văn, đổng cảm với nhân vật, trân trọng nhà văn, yêu mến nhân vật. Chị Dậu, đến phút này đã đổi thay căn bản : từ van xin lễ phép, nhẫn nhục chịu đựng, chị trở thành con người quyết liệt, liều lĩnh, muốn chống lại tất cả, muốn quật ngã tất cả. Khi nghe anh Dậu than thở, can ngăn, chị Dậu đã trả lời : "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được". Lời nói mới rắn rỏi, khoẻ khoắn làm sao ! Người, nông dân ấy dám chấp nhận tất cả, dám thách thức tất cả. Không phải chỉ là tiếng nói của một con người mà là tiếng nói, là bản lĩnh của vạn triệu con người bị áp bức lúc bấy giờ. Đó cũng chính là chân lí muôn đời trong cuộc sống. Với chị Dậu, đến câu nói ấy, nhà văn đã hoàn tất công việc khắc hoạ một hình tựợng. Chị Dậu là điển hình xuất sắc của người phụ nữ nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tuy đói nghèo, vẫn giàu tình thương và tiềm ẩn chí căm thù, tinh thần bất khuất, vẫn đầy đủ sức mạnh để chống lại cường quyền, áp bức. Rõ ràng, nếu gió mưa của bạo lực, bất công cứ liên tiếp quật xuống, làm cho những đấu khổ và lòng uất hận dâng đầy, thì sẽ "tức nước'.' và "vỡ bờ". Khi nước đã phá bờ rồi, nó không hề biết sợ, nó có thể quật ngã tất cả, phá vỡ tất cả.
Trở lại với câu tục ngữ tiêu đề của đoạn trích này, suy ngẫm về nghĩa đen, nghĩa bóng của ngôn từ, hình ảnh, chúng ta vừa thấm thìa cái quy luật diệu kì của tự nhiên vừa cảm mến, kính phục ngòi bút hiện thực đầy tính nhân đạo và tính chiến đấu của Ngô Tất Tố. Qua đoạn trích, cũng như cả cuốn tiểu thuyết Tắt đèn, nhà văn giúp chúng ta hiểu sâu sắc một quy luật xã hội : "Có áp bức thì có đấu tranh, sự áp bức càng tàn nhẫn, thắt ngặt thì cuộc vùng lên, đấu tranh chống lại càng mạnh mẽ". Có thể nói đoạn trích Tức nước vỡ bờ được viết bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đã vạch trần bộ mặt tàn ác bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời. Xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô vàn cực khổ, khiến họ phải liều mạng chống lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn và bản lĩnh gan góc, dũng cảm của người phụ nữ nông dân giàu yêu thương, có sức sống tiềm tàng không dễ gì khuất phục.
Ra đời trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tiểu thuyết Tắt đèn có tác dụng giáo dục, thức tỉnh bạn đọc mạnh mẽ. VI thế, nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét : "Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nổi loạn"..., "Cách viết lách như thế, cách dựng truyện như thế, không phải là phát động quần chúng nông dân chống quan Tây, chống vua ta thì còn là cái gì nữa(1)". Trong chương truyện thứ XVIII nàỵ, chị Dậu đã "nổi loạn", chống lại bọn tay sai của "quan Tây" và "vua ta". Song đó là sự vùng lén tự phát, bột phát. Muốn thực sự được giải phóng để vĩnh viễn thoát khỏi sự hánh hạ của bọn cai lệ, của ách thống trị thực dãn, phong kiến, chị Dậu cũng như những người nông dân khác và cả dân tộc ta phải biết tổ chức nhau lại, phải làm cách mạng, đi theo cách mạng. Khi viết Tắt đèn, nhà văn Ngô Tất Tố chưa được giác ngộ cách mạng. Song ông đã phát hiện những tiềm năng cách mạng trong quần chúng nông dân, phát động họ chống quan Tây, vua ta. Ngòi bút của ông sắc mạnh như gươm giáo. Và ông xứng đáng được xem là đồng minh tích cực của cách mạng .
Tham khảo:
Phéo trình bày: quy nạp.
Câu chủ đề: in đậm.
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.
"Tức nước vỡ bờ", câu tục ngữ nêu một quy luật của tự nhiên, mà có ý nghĩa xã hội sâu sắc, thâm thuý vô cùng. Tác giả sách giáo khoa đã vận dụng cách nói dân gian ngắn gọn, rất thông minh ấy để đặt tên cho chương XVIII cùa tiểu thuyết Tắt đèn khi chọn đưa vào sách giáo khoa từ buổi đầu xây dựng nhà trường XHCN Việt Nam, cũng thật sâu sắc và thâm thuý vô cùng. Nhờ vậy, ngày nay đọc lại chương truyện này, chúng ta dễ dàng định được hướng đi, để cảm nhận những tình huống hấp dẫn, những hình tượng nhân vật sống động, điển hình. Những điều gì làm "tức nước" ? Khi nào thì nước phá vỡ bờ ? Nước phá, bờ vỡ... ra sao ? Ý nghĩa của cuộc công phá và sự đổ vỡ ? Nghĩa đen, nghĩa bóng ? Quy luật của tự nhiên, quy luật của xã hội ?
Những điều gì làm tức nước ? Trước hết, ấy là dồn dập những trận dông tố bất công phi lí từ chính sách thuế thân quái gở của thực dân Pháp, đến những thủ đoạn bóc lột trắng trợn của gia đình nhà Nghị Quế, những hành động dã man của bọn lí dịch trong làng dội xuống gia đình chị Dậu. Chính chị Dậu - nạn nhân trực tiếp của những cơn dông tố ấy - ở giữa nhà lí trưởng, đã phải hét to lên những lời uất nghẹn này : "Ôi trời ơi ! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ nộp tiền sưu cho chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa ! Khốn nạn thân tôi ! Trời ơi ! Em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở trời ?" Ba lần người nông dân khốn khổ ấy kêu trời, hỏi đất ! Nhưng làm gì có trời để kêu, để hỏi ? Chỉ có bọn đầu trâu mặt ngựa mà thôi. Chúng không có tai để nghe, chúng không có tim để rung cảm. Chúng chỉ biết văng tục, chửi bới, ức hiếp, đánh đập, hành hạ người khác một cách dã man. Đại diện cho bọn trâu ngựa ấy là tên cai lệ và tên người nhà lí trưởng. Chúng chính là những cơn bão tố, những ngọn hồng thuỷ trực tiếp làm cho cái mặt nước cuộc đời, những con sóng căm uất của chị Dậu đầy lên, căng ứ không thể kìm nén được ! Khi anh Dậu vừa tỉnh lại, run rẩy cất bát cháo kề vào miệng định cố ăn - như cố níu giữ chút hơi tàn của cuộc sống - thì chúng sầm sập tiến vào nhà, với roi song tay thước, dây thừng, hệt như những con quỷ dữ từ âm phủ hiện về. "Thằng kia ! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à ? Nộp tiền sưu ! Mau !". Cái giọng khàn khàn do hút nhiều xái cũ của tên cai lộ thổi tắt phụt chút hơi tàn của anh Dậu "khiến anh lăn đùng ra đó, không nói dược câu gì". Rồi tới tấp, dồn dập, hắn quát mắng, chửi bới, đe doạ chị Dậu. Trong khi người đàn bà khốn khổ vừa ôn tồn, vừa tha thiết xin khất thuế, thì hắn cứ khăng khăng một mực đòi cho kì được. Hắn gọi chị Dậu là "mày", xưng là "cha", rồi xưng "ông". Hắn doạ "dỡ nhà", rồi doạ "trói cổ" anh Dậu điệu ra đình. Cuối cùng, hắn giật phắt cái thừng trong tay người nhà lí trưởng, sầm sập đến chỗ anh Dậu. Và trắng trợn, tàn bạo hơn nữa, tên ác quỷ ấy đã... đánh chị Dậu. Hắn "bịch vào ngực chị mấy bịch", rồi "tát vào mặt chị một cái đánh bốp"... Mỗi lần chị Dậu van xin, ngăn cản hắn, đỡ đòn cho anh Dậu, là mỗi lần tên cai lệ hung hăng thêm. Vừa đánh, vừa chửi chị Dậu, hắn vừa "sấn đến", "nhảy vào" cạnh anh Dậu. Nhà văn đã sử dụng những từ ngữ thật sát hợp, ngắn gọn, miêu tả thật chính xác cái bản chất ác thú, không còn tính người của tên tay sai mạt hạng trong cái guồng máy bạo tàn của bọn quan lại bấy giờ. Nổi bật là những lời nói thô lỗ của hắn, như câu "Mày định nói cho cha mày nghe đấy à...", "trói cổ thằng chổng nó lại"... và những từ tượng thanh "bịch... bịch"... "... bốp". Chị Dậu càng lùi, càng nhịn, thì tên cai lệ càng lấn tới. Tinh huống truyện cứ căng thẳng mãi lên. Bản chất súc vật của tên cai lộ phơi bày trắng trợn. Bão táp, mưa sa đã dến độ phũ phàng, bức bối. Cơn lũ đã lên đến đỉnh. Nước đã tức ! Sau cái tát giáng xuống chị Dậu, tên cai lệ đã bị chị "túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa... ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chổng kẻ thiếu sưu". Thảm hại thay cho một kẻ cậy thế, cậy quyền, mượn uy danh lũ thống trị ức hiếp người dân ! Cái hình ảnh "ngã chỏng quèo", mấy tiếng nói "nham nhảm" và cả cái hành động "chạy thoát ra đình" để trình báo cấp trên của cai lệ được nhà văn miêu tả thật đặc sắc. Đó là những nét điển hình của bọn lính tráng, tay sait Chúng chỉ mạnh ở cường quyền, bạo lực, còn bản chất thì yếu hèn, xấu xa. Chúng xấu từ hình dáng bên ngoài đến nhân cách bên trong. Cai lộ là thế. Tên người nhà lí trưởng cũng vậy. Sự thất bại của chúng sau trận hành hung và vật lộn với chị Dậu là lời cảnh cáo đối với những kẻ bạo tàn, cũng là sự mỉa mai, giễu cợt mạnh mẽ mà nhà văn nhằm vào cái bộ máy thống trị với một lũ quan lại, cường hào, tay chân lớn nhỏ lúc bấy giờ. Chúng hung hăng, tàn bạo, xảo quyệt, độc ác đến mấy, rồi cũng phải "ngã chỏng quèo" trước người đàn bà lực điền, giàu tình thương và ngang tàng, bất khuất. Có thể nói, chính sách thuế thân vô lí, thuế đánh vào mạng người sống và cả người chết, cùng những hành động ức hiếp nhân dân của bọn thống trị không có tính người là nguyên cớ làm cho... nước bị tức, xô đẩy, dồn ép con người vào cái tình thế bức bách, không sao kìm nén, chịu đựng được. Nước bị tức thì phải nổi sóng, tràn ra. Và phá... vỡ bờ ! Nước tức, phá vỡ bờ như thế nào ? Chị Dậu là biểu tượng cho những đợt sóng cồn tức nước và sức mạnh công phá, đạp vỡ mọi bãi bờ. Giữa cơn hồng thuỷ sưu thuế khốc liệt ở làng Đông Xá những ngày ấy, chị Dậu đã chịu bao nỗi đắng cay, tủi nhục. Nào bán con, bán chó, bán hai gánh khoai - những của cải cuối cùng của gia đình. Nào chăm sóc người chồng bị ốm đau, bị dánh trói. Nào dỗ con nhỏ, nào cầu cạnh nhà Nghị Quế, van xin lí trưởng, rồi than khóc tru tréo, kêu trời, hỏi trời,... Mọi việc ấy, chị đều đảm đương, mọi khổ đau ấy, chị đều chấp nhận. Không một chút phàn nàn với chồng con, không một lời ân hận vé vai trò, trách nhiệm của người vợ, người mẹ - giờ đây chị trở thành trụ cột trong gia đình. Tất cả cái gánh nặng gia đình đè lên vai, chị vẫn bình tĩnh lo toan, cố gắng chu tất mọi việc. Tinh thương, tấm lòng vị tha, đức hi sinh và nghị lực,... đã giúp cho người phụ nữ nông dân ấy đứng vững trước mọi bão tố. Đến giây phút căng thẳng nhất - lúc anh Dậu ngất như một cái xác bị bọn tuần đinh quẳng vể nhà - chị vẫn cố gắng giữ bình tĩnh để chăm sóc, cứu anh khỏi tay thần chết. Buổi sáng hôm ấy, chị mới dịu dàng làm Sao ! Nấu xong cháo, quạt nguội, bưng bát cháo đến tận chỗ chồng nằm, chị động viên anh : "Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Lúc bọn cai lệ sầm sập vào nhà, chị vẫn dịu dàng và bình tĩnh. Nói với bọn chúng, giọng chị run run : "Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi rihư thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu"... Lời nói thật rành mạch, rất có lí, có tình. Trong ứng xử với bọn cai lệ, chị Dậu cũng luôn giữ thái độ nhã nhặn, nhún nhường, đủ tình, đủ lí. Khi bọn cai lệ nói năng thô tục, chị Dậu vẫn gọi chúng là "ông", "các ông", xưng là "cháu", "nhà cháu". Hai lần chị xin chúng : "Hai ông làm phúc nói với ông lí hãy cho cháu khất"..., "Nhà cháu đã không có... Xin ông trông lại !". Lần thứ ba, chị van lạy chúng : "Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho !". Như vậy, người nông dân khốn khổ ấy đã cố kìm nén, cố chịu đựng mọi nỗi đau khổ kể cả bị sỉ nhục, bị chửi bới. Phần vì tình thương chồng, phần cũng vì tôn trọng luật pháp, nể sợ người nhà nước đang thi hành nhiệm vụ. "Nước" cố giữ mình trong khuôn khổ tự nhiên, trong phép tắc của xã hội, của trật tự trên dưới. Thái độ ấy của chị Dậu đáng thông cảm biết bao ! Nhưng, "cây muốn lặng, mà gió chẳng đừng", "nước" muốn ở yên mà bão tố cứ quật xuống. Chị Dậu cố chịu đựng nhưng bọn cai lệ vẫn làm càn. Thế là, "nước" đã tức. Sau khi bị tên cai lệ đánh và đe doạ không tha anh Dậu, chị Dậu tức quá, không thể chịu được... cự lại : "Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ !". Và, sau khi tên cai lệ tát chị, nhảy vào cạnh anh Dậu, người đàn bà giàu tình thương chồng và ngùn ngụt lòng căm giận đã đứng thẳng, nghiến hai hàm răng, ngăn cản và thách thức kẻ thù : -Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem ! Thế là tất cả đã thay đổi. "Nước" đã nổi sóng. Nhân vật thay đổi tính cách. Ngôn ngữ vSn chương cũng chuyển sang giọng điệu khác. Thể hiện lời nói của chị Dậu, nhà văn dùng các từ thông tục "mày", "bà" và những câu ngắn, nhịp nhanh ("... ông không được phép !... bà cho mày xem"...). Chị Dậu - với sức khoẻ của người đàn bà lực điền, sự bùng cháy của lòng uất hận và của tình thương để bảo vệ chồng và tự vệ, đã vùng lên nhanh nhẹn, táo tợn, ngang tàng, trong chốc lát đã quật ngã hai tên ác ôn dầu trâu mặt ngựa. Tới đây, tác giả chuyển từ văn kể sang văn miêu tả thật sống động, hào hứng. Cuộc tỉ thí chia làm hai hiệp. Hiệp một : chị Dậu túm cổ tên cai lệ, ấn dúi ra cửa khiến hắn ngã chỏng quèo. Hiệp hai : chị Dậu nắm được gậy của tên người nhà lí trưởng, du đẩy, rồi buông gậy ra, áp vào vật nhau... Rồi chị Dậu "túm tóc lẳng cho một cái", dối thủ ngã nhào ra thềm. Rõ ràng, trong cả hai hiệp, người đàn bà nhà quê ấy đểu chủ động, bình tĩnh, nhanh nhẹn, gan góc, dũng cảm. Chị đã chiến thắng giòn giã. Viết đoạn văn này, lựa chọn được những từ ngữ đúng nhất, những câu vãn đẹp nhất dành cho nhân vật yêu mến của mình, hẳn nhà văn Ngô Tất Tố rất hả hê, sảng khoái ! Ông như nhập hồn cùng nhân vật để đồng cảm, đồng tình, vừa tả, vừa kể, vừa ca ngợi, khích lệ. Người đọc chúng ta, khi đọc truyện, cũng đồng cảm với nhà văn, đổng cảm với nhân vật, trân trọng nhà văn, yêu mến nhân vật. Chị Dậu, đến phút này đã đổi thay căn bản : từ van xin lễ phép, nhẫn nhục chịu đựng, chị trở thành con người quyết liệt, liều lĩnh, muốn chống lại tất cả, muốn quật ngã tất cả. Khi nghe anh Dậu than thở, can ngăn, chị Dậu đã trả lời : "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được". Lời nói mới rắn rỏi, khoẻ khoắn làm sao ! Người, nông dân ấy dám chấp nhận tất cả, dám thách thức tất cả. Không phải chỉ là tiếng nói của một con người mà là tiếng nói, là bản lĩnh của vạn triệu con người bị áp bức lúc bấy giờ. Đó cũng chính là chân lí muôn đời trong cuộc sống. Với chị Dậu, đến câu nói ấy, nhà văn đã hoàn tất công việc khắc hoạ một hình tựợng. Chị Dậu là điển hình xuất sắc của người phụ nữ nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tuy đói nghèo, vẫn giàu tình thương và tiềm ẩn chí căm thù, tinh thần bất khuất, vẫn đầy đủ sức mạnh để chống lại cường quyền, áp bức. Rõ ràng, nếu gió mưa của bạo lực, bất công cứ liên tiếp quật xuống, làm cho những đấu khổ và lòng uất hận dâng đầy, thì sẽ "tức nước'.' và "vỡ bờ". Khi nước đã phá bờ rồi, nó không hề biết sợ, nó có thể quật ngã tất cả, phá vỡ tất cả. Trở lại với câu tục ngữ tiêu đề của đoạn trích này, suy ngẫm về nghĩa đen, nghĩa bóng của ngôn từ, hình ảnh, chúng ta vừa thấm thìa cái quy luật diệu kì của tự nhiên vừa cảm mến, kính phục ngòi bút hiện thực đầy tính nhân đạo và tính chiến đấu của Ngô Tất Tố. Qua đoạn trích, cũng như cả cuốn tiểu thuyết Tắt đèn, nhà văn giúp chúng ta hiểu sâu sắc một quy luật xã hội : "Có áp bức thì có đấu tranh, sự áp bức càng tàn nhẫn, thắt ngặt thì cuộc vùng lên, đấu tranh chống lại càng mạnh mẽ". Có thể nói đoạn trích Tức nước vỡ bờ được viết bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đã vạch trần bộ mặt tàn ác bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời. Xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô vàn cực khổ, khiến họ phải liều mạng chống lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn và bản lĩnh gan góc, dũng cảm của người phụ nữ nông dân giàu yêu thương, có sức sống tiềm tàng không dễ gì khuất phục. Ra đời trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tiểu thuyết Tắt đèn có tác dụng giáo dục, thức tỉnh bạn đọc mạnh mẽ. VI thế, nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét : "Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nổi loạn"..., "Cách viết lách như thế, cách dựng truyện như thế, không phải là phát động quần chúng nông dân chống quan Tây, chống vua ta thì còn là cái gì nữa(1)". Trong chương truyện thứ XVIII nàỵ, chị Dậu đã "nổi loạn", chống lại bọn tay sai của "quan Tây" và "vua ta". Song đó là sự vùng lén tự phát, bột phát. Muốn thực sự được giải phóng để vĩnh viễn thoát khỏi sự hánh hạ của bọn cai lệ, của ách thống trị thực dãn, phong kiến, chị Dậu cũng như những người nông dân khác và cả dân tộc ta phải biết tổ chức nhau lại, phải làm cách mạng, đi theo cách mạng. Khi viết Tắt đèn, nhà văn Ngô Tất Tố chưa được giác ngộ cách mạng. Song ông đã phát hiện những tiềm năng cách mạng trong quần chúng nông dân, phát động họ chống quan Tây, vua ta. Ngòi bút của ông sắc mạnh như gươm giáo. Và ông xứng đáng được xem là đồng minh tích cực của cách mạng !
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.
Văn cảm nhận thì phải tự nghĩ cậu ơi,chứ cảm nhận mà lấy cảm nhận của ng khác thì mk sẽ không có những cái cảm xuc vì mỗi ng có 1 cách cảm nhận khác nhau mà(lời góp ý riêng)
Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thần, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tốđã phản ảnh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kì” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chất tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết.
Với số trang hạn chế, nhưng Tất đèn đã mô tả khá đầy đủ mọi mặt của những lực lượng thông trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đấy là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ nhờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên, bòn rút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng, Ngô Tất Tốbằng ngòi bút thầm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân - tác giả của những tấm thẻ SƯU. Bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ Cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng.
Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tốđã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn.Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là “tất cả của Tắt đèn”.
Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa... Viết về số phận của phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tốđã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo, quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này.
Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thống, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp, nết na.Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương, trân trọng.
Chị Dậu - một phụ nữ có tấm lòng vị tha, yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách để cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tay sai... cũng làm cho người đọc yêumến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ.
Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phải bán đứa con đầu, chị như cắt đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đối với “sợi dây thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tửu, thằng Dần, cái Tí.
Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khỏi bỡ ngỡ trước bao mưu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phải là người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quế, nhìn bọn tai to mặt lớn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều... Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt...
Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua - phải nộp một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại... tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình.
Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phải điêu đứng vì số tiền nộp sưu, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giấy bạc vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng.
Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm... nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị sống ở nơi tăm tốibị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Tóm lại, bằng thái độ trân trọng của sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tốđã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi đau xót, đặc biệt với những phẩm chất trong sạch. Chính những yếu tốtích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muôn “tung ra khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuần), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân.
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thông.
Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đối lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa.
Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khắc họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vậtchính diện đẹp người, đẹp nết... tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn... tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biến đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh...).
Nhân vật trong Tắt đèn phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ.