nguyên nhân xuất hiện và tác dụng của từ hán việt
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hình ảnh cây tre Việt Nam trong tùy bút Cây tre Việt Nam của Thép Mới là hình ảnh tuyệt đẹp thể hiện sự gắn bó và biểu tượng cho người dân Việt Nam. Người dân Việt Nam luôn coi tre là bạn, là người cũng chiến đấu, cùng tham gia sản xuất. Điều đó thể hiện sự gắn bó, mật thiết giữa cây tre và người nông dân Việt Nam. Bên cạnh đó, tre còn biểu tượng cho bản tính cương trực, ngay thẳng, tinh thần kiên trung của người dân Việt Nam. Đó là một nét đẹp trong phẩm chất, đạo đức của con người Việt Nam.
Giải thích:
- Cương trực: chỉ sự ngay thẳng, chính trực, cứng rắn
- Kiên trung: thể hiện một tinh thần kiên định, tuyệt đối trung thành.
" Bánh trôi nước " ( Hồ Xuân Hương )
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìn với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tâm lòng son
Tác dụng :
+ Đúng với vần của bài thơ
+ Đúng với ý nghĩa của bài thơ
CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố.
Gõ sừng mục từ lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ.
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Chiều hôm nhớ nhà là một đề tài quen thuộc, được nói đến trong nhiều bài thơ nổi tiếng như Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu, Ngắm cảnh chiều ở Hán Dương của Nguyễn Du. Nhưng với Bà Huyện Thanh Quan, chủ đề đó đã được ghi dấu ấn đậm nét bằng một phong cách sử dụng từ Hán Việt.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ lựa chọn những tín hiệu thẩm mỹ đặc trưng của thời gian chiều tà: hoàng hôn của thiên nhiên và hoàng hôn của cuộc sống con người. Từ hoàng hôn không chỉ để thông báo khoảng thời gian chen lấn giữa đêm và ngày mà nó còn tạo nên cảm giác về một thiên nhiên vắng vẻ và buồn. Cuộc sống của con người được tác giả ghi lại bằng hai chi tiết của cảnh chiều:
Gác mái ngư ông về viễn phố.
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Nhạc điệu câu thơ chậm rãi, ngắt thành 3 nhịp: Gác mái/ ngư ông/ về viễn phố - Gõ sừng/mục tử/ lại cô thôn. Sự đối xứng giữa các từ ngữ, hình ảnh làm cho cảnh sinh hoạt ở đây có sự vận động nhưng vẫn man mác buồn. Cái hay của bài thơ là ở chỗ từ hình ảnh quen thuộc của ông lão đánh cá và trẻ chăn trâu, nơi bến xa, thôn vắng đã được tác giả sử dụng bằng những từ Hán Việt trang trọng: ngư ông, viễn phố, cô thôn, tạo nên không khí tĩnh lặng, cảnh chiều thêm tĩnh mịch và ẩn chứa một nỗi niềm man mác, bâng khuâng của lòng người. Trong cảnh thiên nhiên buồn vắng đó xuất hiện hình ảnh của con người:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Những cánh chim vội vã cố gắng bay về rừng tìm chốn ngủ, khách bộ hành cũng bước gấp về nơi trú ngụ. Hai câu thơ cũng đối rất tề chỉnh: ngàn mai/ dặm liễu, gió cuốn/ sương sa. Sự đối xứng này làm nổi bật lên nỗi mệt nhọc và sự cố gắng trong cảnh chiều lặng lẽ của khách đường xa. Thông thường cảnh chiều gợi lên hình ảnh hứa hẹn sự sum họp, đầm ấm, nhưng trong bài thơ, tác giả sử dụng các từ Hán Việt ngàn mai, dặm liễu gợi lên cảm xúc xa xôi, buồn vắng, đơn chiếc. Trong hoàn cảnh đó, tâm trạng con người bộc lộ một cách rõ rệt:
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ.
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Kẻ và người đều là những đại từ phiếm chỉ, chủ thể trữ tình được ẩn chứa đằng sau nó. Tuy nhiên, qua đây ta có thể nhận thức được về chủ thể trữ tình – nhà thơ đang trong cảnh sinh ly, bao trùm tất cả là nỗi buồn sinh ly. Và nỗi buồn sinh ly đó được tạo nên bởi từ Hán Việt lữ thứ. Chỉ có những người đi xa sống nơi đất khách quê người mới rơi vào tâm trạng cô đơn buồn vắng như vậy. Kết thúc bài thơ là câu thơ thể hiện nỗi khao khát được tâm sự, giải bày. Biết ai hiểu cho nỗi lạnh ấm của lòng người, của nhân tình thế thái. Bài thơ tả cảnh ngụ tình, từ việc tả cảnh chiều muộn ở nơi xa, tác giả thể hiện nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm trắc ẩn trước nhân tình thế thái, không người tri âm tri kỷ. Tất cả được giãi bày qua những vần thơ trữ tình buồn man mác. Cái độc đáo của bài thơ là nữ thi sĩ đã sử dụng rất thành công hệ thống các từ Hán Việt, làm cho bài thơ trở nên trang nhã, thanh tao mà sâu lắng.
Nhà phê bình Phan Ngọc nhận xét: “... Bà Huyện Thanh Quan trong bài Chiều hôm nhớ nhà đã đẩy lùi bức tranh vào thế giới của tâm tưởng, của ý niệm... Các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những kẻ chăn châu, những bến xa, những người ở đài cao, những người khách trọ, cảnh lạnh ấm của cuộc đời. Làm gì có những ngư ông, những viễn phố, những mục tử, những cô thôn? Làm gì có trang đài, người lữ thứ, nỗi hàn ôn? Không những thế, các từ Hán Việt đều đặt vào vị trí quyết định giá trị câu thơ: câu cuối vần để gây tiếng vọng trong tâm hồn ta. Cuối nhịp ở âm tiết 4 để bắt người ta dừng lại ở đây... Nghệ thuật là sự lựa chọn cực kỳ công phu. Bằng cách này, bà Huyện Thanh Quan kéo ta về với cõi vĩnh viễn của ý niệm và nỗi u hoài của nhà thơ, của cái kiếp người không biết đến tháng năm, thời đại, không có sự cách biệt giữa tôi và anh...” (Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt – NXB Đà Nẵng 1991, trang 52,53.)
Đề tài hoài cổ, cảm hứng hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã đi qua đã được bà Huyện Thanh Quan thể hiện qua bài Thăng Long thành hoài cổ với thơ thất ngôn - một trình độ ngôn ngữ tinh tế, điêu luyện, chuẩn xác để miêu tả sự vật, biểu hiện tâm tư.
Bài thơ một lần nữa khẳng định phong cách thơ thanh nhã, trang trọng của bà khi tác giả sử dụng thành công một hệ thống từ Hán Việt. Cũng như ở bài thơ Chiều hôm nhớ nhà, ở bài thơ này phần lớn các từ Hán Việt được đặt vào vị trí quyết định giá trị của câu thơ: từ cuối câu, để lại những dư âm thấm vào tâm hồn người đọc:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ nêu lên một quan niệm về thế lực siêu nhiên vạn năng. Để thể hiện sự quan trọng đó, tác giả không dùng từ ông trời mà dùng từ tạo hóa. Tạo hóa chi phối nhân sinh thế sự, xoay vần cuộc sống xã hội và số phận con người. Tất cả như luôn biến đổi, luôn bị thay thế như một sân khấu diễn trò, lớp này kế tiếp lớp khác và từ Hán Việt hí trường như khắc đậm thêm điều đó. Thực vậy, thời đại lịch sử mà bà Huyện Thanh Quan sống là thời khủng hoảng suy tàn của chế độ phong kiến. Có thể nói đây là nguyên nhân tạo nguồn cảm hứng hoài cổ nơi bà. Tuy nhiên sự gắn bó của bà với triều đại cũ không sâu sắc và mật thiết như Nguyễn Gia Thiều hay Phạm Thái nên thái độ hoài cổ của bà nhẹ nhàng, thanh thoát hơn. Mặc dù vậy, hai câu mở đầu vừa là câu hỏi vừa là câu tán thán với cách sử dụng thành công từ Hán Việt đã ẩn chứa một nỗi niềm luyến tiếc kín đáo của nhà thơ.
Ở hai câu thực, nhà thơ thể hiện tài nghệ điêu luyện của mình trong việc lựa chọn từ ngữ kết hợp tài tình từ thuần Việt và Hán Việt trong một hệ thống niêm luật chặt chẽ. Nhà thơ đã khéo léo chọn hai hình tượng không gian, cảnh vật có tính cách đối lập.
a. Lối xưa xe ngựa / Nền cũ lâu đài
b. Hồn thu thảo / Bóng tịch dương
Hệ thống a. là hình ảnh của không gian nhân tạo, hệ thống b. là hình ảnh của không gian thiên tạo. Không gian nhân tạo không chống chọi nỗi thời gian và đã thuộc về thời gian quá khứ. Những hình ảnh còn lại chỉ là những tàn dư của một quá khứ hoàng kim. Dưới bước đi mạnh mẽ của thời gian, dường như chỉ có cảnh vật thiên nhiên là có khả năng tồn tại, nhưng đó cũng là sự tồn tại trong tàn tạ bởi trong câu thơ gợi hình ảnh của ngọn cỏ thu và ánh mặt trời. Cỏ thu đã trở thành hồn thu thảo và mặt trời chỉ là bóng tịch dương. Dường như ở các câu thơ này, từ Hán Việt là những nốt nhấn cho ý đồ nghệ thuật của các giả. Các cụm từ Hán Việt đã tạo nên những hình bóng không gian mang màu sắc cô liêu tàn tạ. Sự lựa chọn và kết hợp từ độc đáo trên đã tạo nên sự “hòa âm” giữa quá khứ và hiện tại.
Ở hai câu luận, tác giải tiếp tục diễn đạt nỗi niềm hoài cổ trước sự đổi thay qua hình tượng đá trơ gan, nước cau mặt. Đá, nước là biểu tượng của dòng chảy bất tận của vũ trụ và nhân sinh, nhưng ở đây lại mang ý nghĩa phúng dụ cho tâm trạng phủ nhận, chống chọi lại sự đổi thay. Ở hai câu thơ này, nhà thơ lại sử dụng tuế nguyệt, tang thương mang ý nghĩa khái quát rất cao, tạo nên sức gợi cảm cho bài thơ.
Kết thúc bài thơ là một tiếng thở dài tuy nhẹ nhàng nhưng xuất phát từ tâm can:
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Trong bài Độc Tiểu Thanh ký, Nguyễn Du cũng từng viết:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Để nói về những sự phi lý ở đời như là một quy luật, thì ở trong bài thơ này, với từ Hán Việt kim cổ nhà thơ cũng khái quát lên chuyện hưng phế như là một chân lý ngàn đời không thể thay đổi được. Vì thế, kết thúc bài thơ là một nỗi đau, nỗi bi thương và luyến tiếc về một thời xưa cũ. Đoạn trường là một từ Hán Việt được nhà thơ dùng rất đắt để kết tụ lại nỗi đau đó.
Như vậy, Thăng Long thành hoài cổ là một mẫu mực về nhiều phương diện trong tác phẩm văn học về đề tài hoài cổ. Đặc biệt đề tài hoài cổ cảm hứng hoài niệm về một thời đại huy hoàng đi qua nói trên đã được thể hiện qua một bài thơ thất ngôn ngắn gọn, nhẹ nhàng mà tha thiết. Bài thơ càng trở nên trang trọng hơn khi bà khéo léo kết hợp hệ thống từ Hán Việt ở mỗi dòng thơ để tạo nên âm vang của bài thơ. Nhận xét về bài thơ trên, Tiến sĩ Ngôn ngữ học Hoàng Tất Thắng đã viết: “Thăng Long thành hoài cổ là sự hoài cảm về quá khứ, về một thời vàng son đã qua. Hình ảnh trong bài thơ là hình ảnh của ký ức, của tâm tưởng, của những âm vang Hán tự...”.
Với những thành công trên Thăng Long thành hoài cổ xứng đáng là một bài thơ hay của thơ ca thời Trung đại Việt Nam.
Có thể nói rằng, Chiều hôm nhớ nhà và Thăng Long thành hoài cổ là hai bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Bà Huyện Thanh Quan - một phong cách trang nhã, lịch lãm và sâu lắng. Đây cũng là những bài thơ hay về đề tài hoài cảm - hoài cổ trong thơ ca Việt Nam Trung đại. Điều làm nên giá trị nổi bật trong thi phẩm của bà được kết tinh bởi nhiều yếu tố mà trong đó phần quan trọng là sự sáng tạo của nhà thơ trong việc sử dụng và kết hợp một cách tài tình hệ thống từ Hán Việt. Thực vậy, yếu tố từ Hán Việt trong hai bài thơ đã thực sự mang lại cho người đọc một sự cảm nhận tinh tế về tình cảm, nỗi niềm, tài năng và nhân cách của bà Huyện Thanh Quan. Điều đáng nói ở đây không phải là sự xuất hiện ít hay nhiều từ Hán Việt trong mỗi bài thơ, mà là cách sử dụng điêu luyện của nhà thơ đã làm nên giá trị nghệ thuật đích thực cho toàn thi phẩm.
Hơn hai trăm năm đã trôi qua, vạn vật và con người có biết bao sự đổi thay, nhưng những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn còn nguyên vẻ đẹp với sức lay động trong mỗi chúng ta nhờ việc sử dụng lớp từ Hán Việt một cách khéo léo, tài tình mà không phải nhà thơ nào cũng làm được.
Tác dụng sử dụng của từ Hán - Việt :
1. Sắc thái trang trọng
Một số từ Hán Việt thay thế từ thuần Việt vì Hán Việt tạo cảm giác trang trọng, nghiêm trang hơn:
phụ nữ – đàn bà
nông dân – dân cày
hi sinh – chết
…
Dùng sinh, phế, phúng, tặng, tẩy... thay cho: đẻ, bỏ, viếng, cho, rửa...
Cách đặt tên phố, chợ, bút danh (các nhà thơ trào phúng lại dùng các từ thuần Việt cho có vẻ hài hước).
Bác Hồ dùng từ Hán Việt trong trường hợp trang nghiêm: Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
2. Sắc thái tao nhã
Từ Hán Việt thay thế cho từ thuần Việt trong trường hợp từ thuần Việt khi được nói ra gây cảm giác thô tục, khiếm nhã.
Các từ chỉ bệnh tật ghê sợ: thổ huyết, xuất huyết, viêm họng...
Các từ chỉ tai nạn, chết chóc: hoả hoạn, thương vong, từ trần...
Các từ chỉ hoạt động sinh lí...
Từ Hán Việt được dung với tư cách là uyển ngữ: mãn nguyệt khai hoa, động phong hoa trúc, cấp dưỡng...
3. Sắc thái khái quát và trừu tượng
Một số từ Hán Việt, đặc biệt là thuật ngữ khoa học có ý nghĩa khái quát hoá cao mà từ thuần Việt không có hoặc không có nghĩa tương đương.
Về chính trị: độc lập, tự do, dân chủ, dân quyền...
Về ngoại giao: công hàm, lãnh sự, sứ quán...
Về quân sự: tiến công, kháng chiến, du kích...
Về toán học: đồng quy, tiếp quyến, tích phân...
...
Những thuật ngữ này có nội hàm lớn, khái quát cao, nếu dùng từ thuần Việt thì dài dòng.
Từ Hán Việt có tính chất trừu tượng, tĩnh gợi cho ta hình ảnh thế giới ý niệm im lìm, tĩnh tại...
Từ thuần Việt gợi sắc thái sinh động, cụ thể của thế giới thực tại.
Có thể lấy ví dụ so sánh bằng hai bài thơ: Thu điếu (Nguyễn Khuyến) và Chiều hôm nhớ nhà (Bà huyện Thanh Quan). Trong bài Thu điếu, Nguyễn Khuyến dùng toàn từ thuần Việt để gợi về mùa thu có thực, về nông thôn bình dị, đẹp nên thơ và rất đỗi thân yêu của làng quê Việt Nam. Ông không dùng từ Hán Việt vì nếu dùng thì cảm giác thân quen, gần gũi rất có thể sẽ bị mất đi. Và ở đây, chính các từ thuần Việt đã tạo nên âm hưởng, tạo nên cảm giác thân quen ấy. Trái lại, trong bài thơ của bà huyện Thanh Quan đó lại là hình ảnh về buổi chiều của nội tâm. Tác giả đã đẩy lùi bức tranh vào thế giới của tâm tưởng, ý niệm. Trong Mẹo giải thích từ Hán Việt của Phan Ngọc có viết: Các từ Hán Việt mà nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn bản, những trẻ chăn trâu, những người ở đài cao, những người khách trọ cảnh ấm lạnh của cuộc đời. Làm gì có những ngư ông, những viễn phố, những mục tử, những cô thôn, làm gì có trang đài, người lữ... Từ Hán Việt đều đặt vào vị trí quyết định – vần cuối câu thơ – dễ gây tiếng vọng trong tâm hồn ta, kéo ta về cõi vĩnh viễn của ý niệm. Và nỗi u hoài của nhà thơ là nỗi u hoài của cái kiếp trước không biết đến tháng năm, thời đại. Đây là nghệ thuật lựa chọn từ ngữ rất công phu. Những từ đó là những tín hiệu thẩm mĩ, những mô típ nghệ thuật gắn với phong cách Đường thi và trở thành nét đẹp truyền thống của thơ ca Việt Nam.
4. Sắc thái cổ
Một số từ Hán cổ quen dùng trong quá khứ đến bây giờ dùng lại gợi sắc thái cổ: tôn ông, huynh ông, phụ vương, ái phi, đồng môn, đồng tuế...
Mô tả những hình ảnh cổ kính của một triều đại đã qua với một tâm trạng nuối tiếc, trong bài thơ Thăng Long thành hoài cổ, bà huyện Thanh Quan đã sử dụng những từ Hán Việt một cách có ý thức. Và việc xếp những từ này vào cuối dòng thơ càng in đậm những hình tượng ngưng đọng trong kí ức. Tất cả đưa đến cho ta cảm giác về một sự đổi thay của tạo hoá:
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ hàn cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi thành cổ
Cảnh đấy người đây chốn đoạn trường
Nhà thơ Sóng Hồng cũng dùng từ Hán Việt để gợi lại không khí cổ:
Đêm lạnh cành sương đượm
Long lanh bóng nguyệt vờn
Tố Hữu khi nói về truyền thống cổ xưa của dân tộc cũng sử dụng từ Hán Việt:
Cảm ơn Đảng cho ta dòng sữa
Bốn nghìn năm chan chứa ân tình
Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn bạo chúa
Kiếp tì nô vùng dậy chém nghê kình
Từ Hán Việt có sắc thái cổ còn thường được dùng trong thể loại kịch, tuồng. Khi viết về một sự kiện lịch sử, nhà văn thường dùng ngôn ngữ của thời kì lịch sử đó, nếu không, người xem có thể thấy lạc điệu.
Các sắc thái ngữ nghĩa của từ Hán Việt có sức mạnh tu từ nói trên chính là vì nó nằm trong thế đối lập với các từ thuần Việt. Hay nói một cách khác, chính sự đối lập với tiếng Việt là nguyên nhân làm cho nó có sắc thái ngữ nghĩa hay tu từ mà nó vốn không có khi ở trong tiếng Hán. Và sắc thái mới ấy chính là bằng chứng chắc chắn cho thầy rằng từ Hán Việt đã là một bộ phận hữu cơ của hệ thống từ vựng tiếng Việt.
Các sắc thái ngữ nghĩa của từ Hán Việt có sức mạnh tu từ nói trên chính là vì nó nằm trong thế đối lập với các từ thuần Việt. Hay nói một cách khác, chính sự đối lập với tiếng Việt là nguyên nhân làm cho nó có sắc thái ngữ nghĩa hay tu từ mà nó vốn không có khi ở trong tiếng Hán. Và sắc thái mới ấy chính là bằng chứng chắc chắn cho thầy rằng từ Hán Việt đã là một bộ phận hữu cơ của hệ thống từ vựng tiếng Việt.
- Từ láy.
+ Khái niệm: Từ láy là những từ tạo ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ láy âm với nhau.
+ Vai trò: nhằm tạo nên những từ tượng thanh, tượng hình trong nói viết, có giá trị gợi hình, gợi cảm.
- Từ Hán Việt:
+ Khái niệm:
Từ Hán Việt là từ mượn của tiếng Hán, phát âm theo cách Việt.
Từ Hán Việt chiếm một số lượng lớn trong vốn từ Tiếng Việt.
Phân biệt từ Hán Việt với các từ mượn: từ mượn là từ lấy từ tiếng nước ngoài nhưng đã phần nào thích nghi với những chuẩn mực của tiếng Việt( trong đó bao gồm cả từ Hán Việt, Anh, Pháp, Nga…), cho nên được dùng theo cách thông thường mặc dù người sử dụng cảm thấy rất rõ nguồn gốc ngoại lai của nó.
+ Tác dụng:
Về sắc thái ý nghĩa: có sắc thái ý nghĩa trừu tượng, khái quát nên mang tính chất tĩnh tại, không gợi hình.
Về sắc thái biểu cảm, cảm xúc: nhiều từ hán Việt mang sắc thái trang trọng, thanh nhã( trong khi đó nhiều từ thuần Việt mang sắc thái thân mật, trung hòa, khiếm nhã…)
Về sắc thái phong cách: từ Hán Việt có phong cách gọt giũa và thường được dùng trong phong cách khoa học, chính luận, hành chính( còn tiếng Việt nhìn chung có màu sắc đa phong cách: giọt giũa, cổ kính, sinh hoạt, thông dụng…
+ Sử dụng từ Hán Việt: Vấn đề sử dụng từ hán Việt là vấn đề hết sức tế nhị. Trong các từ Hán việt và từ thuần Việt
- Từ trái nghĩa.
+ Khái niệm: Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau. Một từ nhiều nghĩa có thể thuộc nhiều cặp từ trái nghĩa khác nhau.
+ Cách sử dụng: Từ trái nghĩa được sử dụng trong thể đối,tạo các hình tượng tương phản, gây ấn tượng mạnh, làm cho lời nói thêm sinh động.
- Thành ngữ:
+ Khái niệm: Thành ngữ là cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh. Nghĩa của thành ngữ có thể bắt nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thường thông qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, so sánh…
+ Cách sử dụng: Thành ngữ có thể làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu hay làm phụ ngữ trong cụm danh từ, cụm động từ,…Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.
- Điệp ngữ:
+ Khái niệm: Khi nói hoặc viết, người ta có thể dùng biện pháp lặp lại từ ngữ ( hoặc cả một câu) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh. Cách lặp lại như vậy gọi là phép điệp ngữ; từ ngữ được lặp lại gọi là điệp ngữ.
+ Các kiểu điệp ngữ:
Điệp ngữ cách quãng.
Điệp ngữ nối tiếp.
Điệp ngữ liên hoàn (còn được gọi là điệp ngữ vòng hay điệp ngữ chuyển tiếp).
nếu như cái trên là vật đang đẩy còn dưới là sàn thì là lực xấu vì lực ma sát cản chuyển động khi chúng ta đẩy 1 vật
nói đại
Thuần Việt: đầu lòng, chị, em, tinh thần, mỗi, người, một, vẻ, mười.
=> Tác dụng: câu thơ giữ được vẻ đẹp giản dị riêng của người Việt, không quá gò bò theo từ nước khác và từ đó làm cho câu thơ hấp dẫn hay hơn.
Hán việt: tố nga, cốt cách, tuyết tinh thần, phân, vẹn.
=> Tác dụng: tăng ngữ điệu cho câu thơ thêm phần mượt mà, sắc sảo, từ ngữ đọc lên hay hơn và qua đó làm cho lời thơ dễ đi sâu vào lòng người đọc.