ý nghiã của bài thơ buổi chiều đứng ở phủ thiên trường trông ra...???
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham Khảo:
Trần Nhân Tông (1258 – 1308) là vị hoàng đến thứ ba của triều Trần, ông nổi tiếng là một vị vua thương dân và yêu nước. Ông cũng là nhà chính trị, một nhà thơ của nền thi ca dân tộc.
Bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” được sáng tác trong hoàn cảnh vua Trần Nhân Tông về phủ Thiên Trường nghỉ ngơi. Bài thơ được viết bằng chữ Hán thơ thể thất ngôn tứ tuyệt với từ ngữ gần gũi, giản dị nhưng đầy cảm xúc:
Thiên Trường vãn vọng
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch nghĩa:
Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Cảnh vật bóng chiều chập chờn nửa như có nửa như không.
Mục đồng lùa trâu về nhà tiếng sáo véo von
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
Bức tranh về một miền quê yên bình tả lại vào một chiều hoàng hôn khi Trần Nhân Tông đứng ở Phủ Thiên Trường nhìn ra (vãn vọng). Hình ảnh trước mặt là không gian rộng lớn với thôn nhỏ trước sau mờ ảo, như được phủ một lớp chả rõ khói hay sương. Hai câu thơ đầu tiên đã miêu tả rõ nét về sự mờ ảo này:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Cảnh buổi của một buổi chiều tà, mờ ảo chả biết cho khói bếp chuẩn bị cho bữa tối hay là do sương sớm mà cảnh vật trở nên mờ mờ, ảo ảo. Cảnh vật của một thôn nhỏ hiện lên thấp thoáng, những màu sắc quen thuộc như ánh sáng vàng vọt của hoàng hôn, của cò trắng, của cánh đồng lúa xanh ngát, bạt ngàn,…của đàn trâu trên đường về sau một buổi kiếm ăn, của những chú bé mục đồng thỏi sáo véo von, thật là một hình ảnh thanh bình, sau một thời gian dài vua quân nhà Trần kiên cường chống giặc ngoại xâm.
Các hình ảnh giản dị, rất đỗi bình thường nhưng lại mang lại cho người đọc bao cảm xúc khác lạ. Tại sao lại thế, có lẽ quân và dân ta đã phải hi sinh rất nhiều, bỏ ra cả máu và nước mắt để chiến đấu bảo vệ đất nước, để mới có được cuộc sống thái bình, ấm no như vậy:
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Hai hình ảnh “mục đồng” và “bạch lộ” (cò trắng) là hai hình ảnh điển hình của cảnh đồng quê buổi chiều tà. Vần thơ không chỉ có sức gợi hình và còn gợi cảm sâu sắc thể hiện cảm xúc lạ và một niềm vui lớn lao trong lòng nhà thơ. Hình ảnh đàn trâu sau một buổi đi kiếm ăn về, mấy chú bé mục đồng cưỡi trâu thổi sáo, cánh cò trắng hạ xuống cánh đồng, thật bình yên quá!
Dù mang trọng trách vô cùng lớn, là một vị quân chủ đứng đầu đất nước nhưng tâm hồn của Trân Nhân Tông vẫn hướng về dân chúng, không quên những thứ tưởng chừng như nhỏ bé nhất giản, giản dị nhất của đất nước. Cho thấy tình yêu quê hương yêu đất nước vô cùng của một vị vua anh minh.
Tham khảo:
Qua bài thơ "Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra" - Trần Nhân Tông đã vẽ ra một bức tranh làng quê tuyệt đẹp. Vào buổi chiều tà, thôn trước, thôn sau khói phủ lên cảnh vật làm mờ mờ ảo ảo "nửa nửa có nửa không". Làm cho cảnh vật càng thêm thơ mộng, mơ màng và thấy được một sự thanh bình nơi làng quê. Bức tranh không chỉ có cảnh vật mà nó còn hòa quyện với con người. Ở làng quê yên bình, trầm lặng có sự xuất hiện của con người và đàn cò trắng. Khung cảnh thật đẹp khi thiên nhiên và con người hòa hợp với nhau.
Nội dung:
- Bài thất ngôn tứ tuyệt “Thiên Trường vãn vọng” là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Qua đó giúp chúng ta thấy rằng, tác giả tuy có địa vị tối cao nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương dân dã.
Nghệ thuật:
- Kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo
- Nhịp thơ êm ái hài hòa
- Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa, lối tả ít gợi nhiều của thi pháp cổ
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
- Bài thơ là một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ gợi tả. Gợi lên một khung cảnh làng quê thật thanh bình và êm ả, nên thơ: Xóm thôn mờ trong sương khói, tiếng sáo của trẻ chăn trâu văng vẳng, từng đôi cò trắng đang xoè cánh đậu xuống đồng.
- Ta hình dung tác giả như đang đắm chìm mơ màng trong không gian buổi chiều tà dung dị quyến rũ ấy. Trong lòng trào dâng một tình yêu tha thiết đối với xóm làng quê hương đất nước thân thương.
Bài thơ “Thiên trường vãn vọng” là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về làng quê trong buổi chiều tà. Mở đầu bài thơ là không gian mở ảo của làng quê, cảnh vật đang nhạt nhòa dần trong sương khói và bóng chiều mập mờ như nửa có nửa không. Hoàng hôn luôn là thời điểm khơi gợi cho ta nhiều cảm xúc, đó là cảm giác bình yên, thư thái trong tâm hồn. Hai tiếng “man mác” như gợi ra nỗi niềm tâm trạng đó ở thi nhân, bởi rất lâu người xa quê nay mới có dịp trở về. Và trong bức tranh thôn quê yên bình ấy, bỗng xuất hiện thanh âm tiếng sáo trong trẻo, bay bổng của chú bé mục đồng đang ngồi vắt vẻo lưng trâu trên con đường về thôn xóm. Tiếng sáo ấy thật bình yên, vui tươi trong khung cảnh chiều muộn. Thời điểm chiều tà cũng là lúc mọi người kết thúc công việc, trở về sum họp vui vẻ bên gia đình. Thiên nhiên, động vật và con người cùng giao hòa trong nhịp sống nhịp nhàng giữa đất trời bao la. Phía xa xa, “từng đôi” cò trắng liệng xuống cánh đồng, gợi nên một cuộc sống bình dị, hữu tình nơi thôn quê. Bức tranh ấy là những màu sắc giao hòa, những thanh âm trong trẻo gợi ra nét thanh bình những cũng vui tươi và đầy sức sống. Chỉ bằng vài ba nét vẽ chọn lọc, lối tả ít gợi nhiều, thi sĩ đã vẽ lên một không gian về cảnh sắc làng quê nên thơ, trữ tình.
Chiều chậm rãi buông những sợi tơ vàng cuối cùng lên sóng lúa dập dờn. Đàn cò trắng vẫn nhẹ nhàng đôi cánh chuẩn bị sà xuống rặng tre. Trên con đường làng đàn trâu no kềnh đủng định từng bước về các ngõ xóm. Những chú bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu, tay cầm sáo thổi vang. Cảnh làng quê lúc chiều về thật thanh bình yên ả.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ta được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Ngày tháng sáng tác không thấy ghi cụ thể nhưng chắc chắn bài thơ ra đời sau chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ ba không lâu, vào giai đoạn cuộc sống yên lành của nhân dân đang được khôi phục lại (nghĩa là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ XIII).