K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 2 2016

* Giai đoạn 1946-1954 : Kháng chiến chống thực dân Pháp

- Tháng 3/1946, thực dân Pháp lại xâm lược Lào. Nhân dân Lào một lần nữa phải cầm súng kháng chiến bảo vệ nền độc lập.

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương và sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Pháp của Lào ngày càng phát triển.

- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, thực dân Pháp kí Hiệp định Giơ ne vơ (7/1954), công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.

* Giai đoạn 1954-1975 : Kháng chiến chống đế quốc Mĩ

- Sau hiệp định Giơ ne vơ, Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Lào. Dưới  sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào, cuộc đấu tranh chống Mĩ được tiến hành trên cả 3 mặt trận : quân sự - chính trị - ngoại giao.

- Quân và dân Lào lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của Mĩ. Đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX, vùng giải phóng đã mở rộng với 4/5 lãnh thổ.

- Tháng 2/1973, các phái ở Lào đã thỏa thuận kí hiệp định Viêng Chăn, lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc  ở Lào.

- Từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1975, được sự cổ vũ của thắng lợi Xuân 1975 ở Việt Nam,  quân dân Lào nổi dậy giành chính quyền trong cả nước.

- Ngày 2/12/1975, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào chính thức được thành lập.

29 tháng 3 2021

Tham khảo:

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chia làm 3 giai đoạn.

-Giai đoạn 1(1418-1423):

+Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn lấy niên hiệu là "Bình Định Vương"

+Những năm đầu nghĩa quân hoạt động ở núi Chí Linh gặp nhiều khó khăn

+Lê Lợi tạm hòa với quân minh.

-Giai đoạn 2(1424-1426):

+ Nghĩa quân rời Thanh Hóa vào Nghệ An.

+Nghĩa quân giải phóng Nghệ AN, Tân Bình, Thuận hóa, và tiến quân ra bắc.

+Được sự ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân thắng nhiều trận lớn, quân mình rơi vào thế phòng ngự rút vào thành Đông Quan cố thủ, cuộc kháng chiến chuyển sang giai đọan phản công.

-Giai đoạn 3(cuối năm 1426- cuối năm 1427)

+Nghĩa quân dành thắng lợi lớn ở trận tốt động-chúc động cuối năm 1426. tiêu diệt quân địch. vây hãm quân dịch ở thành đông quan.

+nghĩa quân dành thắng lợi lớn ở trận chi lăng- xương giang (10-1427). buộc quân minh phải rút về nước. đất nước ta sạch bóng quân thù.

29 tháng 3 2021

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chia làm 3 giao đoạn.

-Giai đoạn 1(1418-1423):

+Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn lấy niên hiệu là "Bình Định Vương"

+Những năm đầu nghĩa quân hoạt động ở núi Chí Linh gặp nhiều khó khăn

+Lê Lợi tạm hòa với quân minh.

-Giai đoạn 2(1424-1426):

+ Nghĩa quân rời Thanh Hóa vào Nghệ An.

+Nghĩa quân giải phóng Nghệ AN, Tân Bình, Thuận hóa, và tiến quân ra bắc.

+Được sự ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân thắng nhiều trận lớn, quân mình rơi vào thế phòng ngự rút vào thành Đông Quan cố thủ, cuộc kháng chiến chuyển sang giai đọan phản công.

-Giai đoạn 3(cuối năm 1426- cuối năm 1427)

+Nghĩa quân dành thắng lợi lớn ở trận tốt động-chúc động cuối năm 1426. tiêu diệt quân địch. vây hãm quân dịch ở thành đông quan.

+nghĩa quân dành thắng lợi lớn ở trận chi lăng- xương giang (10-1427). buộc quân minh phải rút về nước. đất nước ta sạch bóng quân thù

 

Tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

1. Khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1418 - 1423

- Ngày 7/2/1418, Lê lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và xưng là Bình Định Vương.

- Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng bao vây chặt căn cứ Chí Linh, quyết bắt giết Lê Lợi. Trước tình hình nguy cấp đó, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi, chỉ huy một toán quân liều chết phá vòng vây quân giặc. Lê Lai cùng toán quân cảm tử đã hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân.

- Cuối năm 1421, quân Minh huy động hơn 10 vạn lính mở cuộc vây quét lớn vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. Tại đây, nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét. Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa (kể cả con ngựa của ông) để nuôi quân.

- Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5 - 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn.

=>Trong giai đoạn đầu (1418–1423), nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn và tổn thất lớn trong các càn quét của quân Minh.

Những năm đầu họat động của nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn và thử thách:

+ Lực lượng còn non yếu.

+ Quân Minh liên tục tấn công, bao vây.

 

+ Phải ba lần rút lên núi Chí Linh.

+ Thiếu lương thực, thực phẩm.

2. Khởi nghĩa Lam Sơn giai đoạn 1424 - 1426

- Từ năm 1424 đến cuối năm 1426, đội quân Lam Sơn đã diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa và dành được nhiều thắng lợi. Cụ thể diễn biến tiêu biểu của các cuộc khởi nghĩa như sau:

+ Giải phóng Nghệ An (năm 1424)

Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuậnNgày 12/ 10/ 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công Đa Căng Thọ Xuân – Thanh Hóa), sau đó hạ thành Trà LânTrên đà thắng đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.

+ Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (năm 1425)

Tháng 8 / 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân huy quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa

=> Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn mấy thành lũy bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm

+ Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động (cuối năm 1426)

Tháng 9/1426, Lê Lợi và bộ chỉ huy quyết định chia làm 3 đạo tiến quân ra Bắc:Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam sangĐạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị (sông Hồng) và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An về Đông QuanĐạo thứ ba, tiến thẳng về Đông QuanNghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ tích cực về mọi mặtNghĩa quân chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ

=> Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn phản công.

+ Trận Tốt Động - Chúc Động (cuối năm 1426)

Tháng 10-1426, khoảng 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn.Muốn giành thế chủ động, 11/1946, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ (Chương Mĩ, Hà Nội).Biết trước âm mưu của giặc, quân ta phục kích ở Tốt Động - Chúc Động, đánh giặc tan tác rồi Vương Thông kéo quây chạy tháo về Đông Quan.Nghĩa quân thừa thắng kéo về vây hãm Đông Quan, giải phóng thêm nhiều châu, huyện. 

3. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi năm 1427

- Tiếp nối thắng lợi, cuối năm 1427, quân Lam Sơn triển khai chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang, đánh tan tát thêm 10 vạn viện binh quân Minh, buộc tướng chỉ huy quân Minh trên đất Việt cũ là Vương Thông phải xin giảng hòa và được phép rút quân về nước.

=> Sau chiến thắng, Bình Định vương Lê Lợi sai văn thần Nguyễn Trãi viết bài Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc. Nước Đại Việt được khôi phục, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Thuận Thiên, mở ra cơ nghiệp nhà Lê trong gần 400 năm sau đó.

=> Cuộc khởi nghĩa kết thúc thắng lợi.

 

1. Nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Với những âm mưu thâm độc và tội ác của chế độ thống trị nhà Minh, trong vòng 20 năm đô hộ nước ta, nhà Minh đã làm cho sự khủng hoảng của xã hội ngày càng thêm sâu sắc, đất nước bị tàn phá, lạc hậu, nhân dân lâm vào cảnh lầm than, điêu đứng.

Chế độ thống trị của nhà Minh không thể tiêu diệt được tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, với lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc ta đã cầm vũ khí đứng lên đấu tranh theo sự chỉ huy của các quý tộc nhà Trần.

2. Khởi nghĩa Lam Sơn xảy ra năm nào

Bắt đầu năm 1418 và kết thúc thắng lợi năm 1427. Là cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi khởi xướng và là lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra với ba giai đoạn chính:

+) Giai đoạn 1: 1418-1423 – Khởi nghĩa hoạt động ở vùng Thanh Hóa

+) Giai đoạn 2: 1424-1425 – Cuộc khởi nghĩa tiến vào khu vực phía Nam

+) Giai đoạn 3: 1426 – 1427 – Giải phóng Đông Quan

Lập bảng niên biếu những sự kiện chính của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427). Giúp mình với!!! - Hoc24

 

 Khẳng định vai trò lãnh đạo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và Bộ Tham mưu nghĩa quân trong việc hoạch định đường lối, xây dựng căn cứ địa, tập hợp quần chúng, xác định phương thức tiến hành và chỉ huy cuộc khởi nghĩa; tầm vóc, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; đúc rút những bài học kinh nghiệm trong xây dựng thế trận lòng dân, thực hiện sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

4 tháng 2 2018

Đáp án D

Giai đoạn 1954 – 1975 ở cả Việt Nam và Lào đều diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhân dân hai nước đã sát cánh cùng nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ. Như vậy, kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là đế quốc Mĩ

2 tháng 3 2017

Chọn đáp án D

Giai đoạn 1954 – 1975 ở cả Việt Nam và Lào đều diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhân dân hai nước đã sát cánh cùng nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ. Như vậy, kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là đế quốc Mĩ.

5 tháng 8 2017

Đáp án D

Sau năm 1954, Mĩ tiến hành xâm lược Lào và Việt Nam.

- Ở Lào: sau năm 1954, Đảng Nhân dân Lào lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Mĩ trên cả ba mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao và giành nhiều thắng lợi. Đến năm 1975, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền trên cả nước, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào chính thức được thành lập.

- Ở Việt Nam: sau năm 1954, Mĩ dựng lên chính quyền Ngô Định Diệm, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã đấu tranh mạnh mẽ và kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân năm 1975.

14 tháng 12 2019

D.

Nhiệm vụ chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là kháng chiến chống Mĩ.

5 tháng 6 2017

Chọn đáp án D

Giai đoạn 1954 – 1975 ở cả Việt Nam và Lào đều diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhân dân hai nước đã sát cánh cùng nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ. Như vậy, kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là đế quốc Mĩ.

20 tháng 4 2018

Đáp án: D

Nhiệm vụ chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là kháng chiến chống Mĩ.

21 tháng 1 2017

Đáp án D

Giai đoạn 1954 – 1975 ở cả Việt Nam và Lào đều diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhân dân hai nước đã sát cánh cùng nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ. Như vậy, kẻ thù chung của cách mạng Lào và Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 là đế quốc Mĩ.

23 tháng 10 2019

Đáp án D

Sau năm 1954, Mĩ tiến hành xâm lược Lào và Việt Nam.

- Ở Lào: sau năm 1954, Đảng Nhân dân Lào lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Mĩ trên cả ba mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao và giành nhiều thắng lợi. Đến năm 1975, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền trên cả nước, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào chính thức được thành lập.

- Ở Việt Nam: sau năm 1954, Mĩ dựng lên chính quyền Ngô Định Diệm, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã đấu tranh mạnh mẽ và kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu thân năm 1975