Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Em tham khảo nhé !
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Biết bao nhà thơ đã làm thơ về Người, về lăng Người. “Viếng lăng” Bác của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người. .
Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Lời thơ giản dị chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Sinh thời, Người luôn nghĩ đến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha
(Bác ơi)
Lời bài thơ đúng là lời của người con miền Nam ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉ của người Cha già dân tộc. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của người con ở xa mà nỗi niềm nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức.
Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã xiết bao xúc động:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Nhà thơ hẳn phải đến rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao năm đã in hẳn tiềm thức: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót và tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết tre. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa, và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, ‘Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại.
Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người sắp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ đi rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một liên hệ mới:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân.
Ngắm nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ lại nghĩ đến vòng hoa:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết thành tròn. Từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa của đất, những con người từng được Bác Hồ quan tâm. Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài, mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ở đây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm nâng niu, quý trọng.
Những chữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ ngừng, như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác.
Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác không thể không thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã vĩnh viễn ra đi:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi.
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào.
Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi ra về:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi, nhí nhảnh bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng. Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi ước muốn đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vợi nỗi lạnh lẽo của con người đã suốt đời hi sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ buồn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ cõi hằng ngày lên cõi cao cả. Tình cảm đối với Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.
Viết một đoạn văn cảm nhận của em về tình cảm chân thành và tha thiết của nhân dân ta đối với Bác Hồ
refer
Viễn Phương là một trong những nhà thơ nổi bật trong nền văn học nước nhà. Thơ ông nhẹ nhàng, bình dị nhưng gieo vào lòng người đọc những nỗi niềm bâng khuâng, xúc động. Bài thơ "Viếng lăng Bác" là một bài thơ như thế, tác phẩm không chỉ là tiếng lòng của tác giả mà còn là nỗi lòng của muôn triệu nhân dân, con người Việt Nam gửi đến Bác tấm lòng kính yêu thiết tha , chân thành và tin yêu nhất.
" Còn ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng"
Nỗi niềm được gặp Bác luôn đau đáu trong lòng mỗi người Việt Nam. Bác đã hi sinh trọn đời mình cho nhân dân, cho dân tộc, ngày được gặp lại người thì cũng là lúc Bác đã đi xa. Thật đớn đau biết bao, nhưng bằng tấm lòng thành kính, con ra viếng lăng Bác trong một sớm mai sau ngày giải phóng. Đất nước lúc này đã yên bình, khung cảnh bên lăng thật đỗi đẹp đẽ, thanh bình. Hàng tre xanh ngát đứng hiên ngang như đang chở che, canh giữ giấc ngủ ngàn thu của Bác. Chúng con về đây cũng như những hàng tre ấy, muốn đến bên người, ôm người vào lòng cho thoả niềm chờ, nỗi nhớ mong. Hàng tre hiên ngang như những người con đất Việt vậy, sống bất khuất, kiên trung, qua bao cuộc đấu tranh gian khổ vẫn giữ vững tinh thần thép, mãi sáng ngời và đẹp đẽ.
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"
Với chúng con, Bác như ánh mặt trời rực rỡ, soi sáng con đường cách mạng. Ánh mặt trời mang sự sống cho dân tộc chúng ta. Bác mãi là nguồn sáng cao đẹp nhất với công lao vĩ đại và niềm thương vô bờ dành cho nhân dân, cho đất nước. Bởi vậy mà chúng còn luôn dành cho Bác niềm kính yêu khôn tả. Ngày ngày, từng dòng người đến bên Bác, thành kính dâng lên Người những tràng hoa tươi thắm nhất. Kết thành vòng hoa tuyệt diệu tưởng nhớ cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân của Bác. Bác nằm trong lăng với giấc ngủ ngàn năm không nghỉ. Ánh trăng dịu hiền thành người bạn tri âm cùng Người, bên Người qua bao tháng năm. Ánh trăng ấy như tâm hồn Bác vậy, dịu dàng, ân cần, đôn hậu của một vị cha già dành cho nhân dân. Dẫu biết rằng trời xanh là mãi mãi cũng như biết rằng hình bóng Bác mãi bất tử với non sông, mãi mãi in sâu trong lòng mỗi người con của dân tộc, nhưng không thể nguôi đi nỗi đau, nỗi đắng cay, xót xa khi Bác đã đi xa.
" Dẫu biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Bác mãi là niềm thương, niềm tin yêu của nhân dân, gần gũi và thiết tha nhất. Khi phải trở về miền Nam thân yêu, lòng tác giả khôn thấu nỗi nghẹn ngào tiếc nuối. Viễn Phương cất lên tiêng thơ thấy cho lời tri ân của tất cả mọi người:
" Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Dòng nước mắt tuôn rơi, nỗi xúc động, sóng lòng dâng trào khi phải tạm biệt Người. Niềm ước nguyện muốn hoá làm con chim hót vang, làm đoá hoa thơm ngát, làm cây tre trung hiếu để được gần Người, được bên Người nghệ sao nhói lòng đến vậy. Phải chăng đó là mong ước được làm Bác vui, được bên Người mãi mãi như con dân Việt Nam luôn trung hiếu , mãi vững bền với ý chí, vâng theo lời dạy của Người. Người con trở về miền Nam nhưng lòng ở lại, lòng vẫn nhớ về Bác khôn nguôi. Vị cha già kính yêu của đất nước trong sâu thẳm mãi là niềm tự hào nhất đối với mỗi người còn Việt Nam.
Bài thơ thật thắm thiết ân tình, là khúc ngân ngọt ngào và dung dị thể hiện tình thương, niềm kính yêu bao la dành cho Bác. Dòng người về bên Bác mãi sẽ chẳng bao giờ kết thúc, lớp lớp những thế hệ mai sau vẫn mãi sẽ về bên người, gửi đến người ân tình trọn vẹn nhất. Cảm ơn Bác suốt một đời đã dành trọn niềm thương cho chúng con.
Hình ảnh Bác thể hiện rõ nhất trong khổ thơ thứ hai và thứ ba, đặc biệt qua các ẩn dụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh; hoán dụ: bảy mươi chín mùa xuân. Hình ảnh Bác mang vẻ đẹp vừa rực rỡ, vĩ đại, vừa dịu hiền, sáng trong và thắm tươi sự sống, một vẻ đẹp bất diệt, trường tồn. Vẻ đẹp ấy càng lung linh, ngời sáng khi nó được cảm nhận qua tấm lòng thành kính, ngưỡng một, nhớ thương và cảm xúc thăng hoa của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vào lăng viếng Bác. Nhà thơ xưng "con - Bác", một cách xưng hô rất giản dị, mộc mạc mà gần gũi yêu thương chan chứa bao tình cảm, thân thương kính trong Bác Hồ Chí Minh. Điều đó cho thấy, Bác là một con người rất hòa đồng, gần gũi. Chính vì vậy, Nhà thơ tố Hữu có viết "người là cha, là bác, là anh".
Con ở miền nam ra thăm lăng Bác
Còn mang một sắc thái, đày xúc động khi nhà thơ đi từ miền Nam ra thăm Bác. Mơi mà Bác trước lúc lâm chung trái tim luôn hướng về miền Nam ruột thịt. Ở đây có biết bao đồng bào ta đang chiến đấu anh hùng hi sinh vì Tổ Quốc, vì đất nước.
Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao tình cảm, xúc động bồi hồi của tác giả đối vợi vị cha già kính yêu của dân tộc. Và trong cái mênh mang sương mù của mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân của Viễn Phương, ta thấy một "hàng tre" Việt Nam.
Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với nơi nhà tranh âm vang lời ru của bà của mẹ. Nói đến cây tre là ta nghĩ tới đất nước, tới con người Việt Nam với bao đức tính cao quý nhất, trong sáng nhất.
Hình ảnh nhân hóa hàng tre "bão táp mưa sa đứng thẳng hàng" còn là biểu tượng bất diệt của con người Việt Nam hiên ngang kiên cường, bất khuất bền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sống Việt Nam, màu xanh của hy vọng, hạnh phúc và hòa bình. Đây quả là một ý thơ rất độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Thán từ "Ôi" để diễn tả cảm nhận của nhà thơ khi nhìn thấy hàng tre trước lăng và Viễn Phương đã viết một hình ảnh ẩn dụ rất tài tình.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Cũng là mặt trời nhưng "mặt trời" ở câu thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ ngày ngày tỏa sáng đem sự sống cho muôn loài vạn vật, nó cũng có lúc quặt quẹo, u ám. Còn "mặt trời" của nhân dân Việt Nam "mặt trời" trong lăng thì vẫn luôn chiếu ánh sáng vĩnh hằng. Bác chính là mặt trời tỏa tia sáng soi rọi con đường giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến thắng lợi. Dù
Bác đã ra đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn trường tồn, soi đường, dẫn lối cho dân tộc ta đứng ra hòa nhịp với gần trăm triệu bàn chân Việt Nam, hàng triệu bàn chân thế giới. Viễn Phương bùi ngùi, xúc động bước vào:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dân bảy mươi chín mùa xuân
Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như tràng hoa dân lên Người. "Bảy mươi chín mùa xuân", bảy mươi chín năm cống hiến, hi sinh hết mình đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật, Bác chính là mùa xuân và mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân Việt Nam nở hoa.
Điệp ngữ "ngày ngày" vừa thể hiện một quy luật của dòng người vào lăng viếng Bác vừa thể hiện một quy luật tự nhiên của tạo hóa. Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vô thức bị dòng thơ cuốn vào trong lăng lúc nào không hay.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng sáng "dịu hiền", mát mẻ mà ẫn trong sáng ngời ngời. Ta có cảm giác như Bác vẫn chưa đi xa, chưa rời khỏi thế gian này mà Người đang ngủ đấy thôi.
Bác không bao giờ mất, Bác sống mãi với dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự việc mà chúng ta làm vì độc lập, tự do, vì xã hội chủ nghĩa. Ta biết thế, ta nghĩ thế nhưng sao tim ta vẫn "đau nhói", mắt ta vẫn trào dâng khi ta nhận ra rằng: Bác đã không còn nữa.
Khổ thơ thứ hai và thứ ba là một chuỗi hình ảnh vũ trụ: trời xanh, vầng trăng, mặt trời lồng vào nhau để ca ngợi tầm vóc to lớn của Bác. Ngang tầm với vũ trụ rộng lớn, bao la đồng thời thể hiện lòng tôn kính, kính trọng của nhà thơ đối với Bác.
Cuộc vui nào cũng có lúc phải kết thúc và cuộc hành trình vào lăng viếng Bác của nhà thơ cũng đã hết, đã đến lúc tác giả phải nói lời tạm biệt:
Mai về miền nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu trốn này
Nếu mở đầu bằng chi tiết "con ở miền nam ra thăm Bác" thì hết thúc lại bằng: "mai về miền nam thương trào nước mắt" . Đây là giờ phút chia tay với Bác, tâm trạng của nhà thơ đầy niềm cảm thương xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến.
Tình thương xót dồn nén giữa tâm hồn làm nảy sinh bao ước muons: "muốn làm con chim", "muốn làm đóa hoa" và đặc biệt là làm "cây tre trung hiếu" để canh giấc ngủ của Bác.
Điệp ngữ 3 lần "muốn làm" để thể hiện dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn gần Bác mãi mãi.
Bằng tất cả tình yêu thương chân thành, Viễn Phương gợi hết những cảm xúc của mình qua những vần thơ. Thể hiện cảm xúc chân thành, ước nguyện giản đơn, lòng tôn kính đối với Bác. Rất nhiều năm tháng đã trôi qua, nhưng mỗi thế hệ con người Việt Nam khi đọc lại bài thơ "viếng lăng Bác" này đề có những khung bậc cảm xúc khác nhau, đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng, tư tưởng, đồng thời cũng thấy vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, tỏa ra từ chính tâm hồn, tri thức và trái tim của Bác.
Như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh-nhà lãnh tụ vĩ đại, niềm tự hào của dân tộc từ lâu đã là đề tài muôn thuở của các nhà thơ nhà văn. Trong số đó phải kể đến tác phẩm Viếng Lăng Bác được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” của Viễn Phương, đó là một bài thơ vô cùng xúc động, bài thơ là tấm lòng thành kính sót thương vô hạn của nhà thơ nói riêng và cũng chính là của đồng bào miền Nam đối với người hùng, vị cha già kính yêu của dân tộc.
Thật vậy, Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay cả trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường. Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976 khi đất nước đã thống nhất, bài thơ chính là tình cảm, niềm mong mỏi là ước nguyện của nhà thơ cũng như các chiến sĩ và đồng bào miền Nam khi ra thăm lăng viếng Bác.
Mở đầu bài thơ chính là cảm xúc của bài thơ khi đến thăm lăng Bác, đó là tình cảm của một người con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giờ phút được trở về bên Bác đã được diễn tả sâu sắc trong qua khổ thơ
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Câu thơ mở đầu như một lời tự sự, một lời thông báo giản dị nhưng chứa đựng biết bao điều. Miền Nam nơi đầu tuyến của tổ quốc nơi đã có không biết bao vị anh hùng đã ngã xuống, vì thế đây không đơn thuần là đi chiễm ngưỡng di hài của một vĩ nhân mà chuyến đi này còn chính là tìm về cội nguồn, về để báo công với Bác, về để được Bác ôm vào lòng.Ở đây nhà thơ xưng bằng tiếng con, cách xưng hô thật gần gũi thân thiết nhưng vẫn hết mực thành kính, thiêng liêng. Lời thơ còn ẩn chứa nỗi niềm ra thăm Bác, nhà thơ không nói viếng mà là thăm bởi lẽ đây chính là cách nói giảm nói tránh để giảm nhẹ nỗi đau thương rằng Bác vẫn còn sống mãi trong lòng nhân dân miền Nam, trong lòng mỗi người con Việt, đó cũng chính là niềm xúc động sau bao năm xa cách của tấm lòng người con về thăm cha, về thăm nơi Bác nằm để thỏa lòng khao khát mong nhớ bấy lâu. Ấn tượng đầu tiên mà tác giả quan sát được, cảm nhận được chính là hình ảnh hàng tre trong sương biết bao sức sống “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Suy nghĩ về bài thơ Viếng lăng Bác
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Sự xuất hiện của hàng tre trước không chỉ là hình ảnh hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam mà đó còn là hình kiên cường bất khuất chủa nhân dân Việt Nam dù có khó khăn, gian khổ nhưng nhân dân ta vẫn trường kì chiến đấu anh dũng, không bao giờ chịu khuất phục vẫn luôn “đứng thẳng hàng”,vẫn luôn đoàn kết đấu trnh tới cùng vì sự nghiệp vĩ đại của tổ quốc. Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng đã nói nên được biết bao những cảm xúc chân thành thiêng liêng của nhà thơ cũng như của nhân dân đối với Bác.
Sang đến khổ hai chính là những cảm xúc trân thành của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chin mùa xuân…
Nhà thơ đã sử dụng thành công biện pháp nghệ thuật so sánh khi khi so sánh Bác với mặt trời. Hình ảnh mặt trời đi qua trên lăng đó là mặt trời của thiên nhiên, là cội nguồn của sự sống là sự bất tử vĩnh hằng. Còn hình ảnh mặt trời trong lăng chính là hình ảnh của Bác, nếu như không có mặt trời thì cũng đồng nghĩa với việc sẽ không tồn tại sự sống, dân tộc Việt Nam cũng như vậy nếu như vậy, Bác chính là mặt trời tỏa sáng soi sáng sưởi ấm cho nhân dân, dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc giành tự do, đó cũng chính là niềm tự hào của dân tộc Việt khi có Bác. Cũng như vậy nhà thơ lấy hình ảnh đoàn người ngày ngày vào lăng viếng Bác đó là hình ảnh đều đặn của con người Việt Nam, những dòng người lặng trĩu từ khắp mọi miền tổ quốc đã về đây lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác “Dòng người đi trong thương nhớ”.Đoàn người kết thành tràng hoa bất tận dâng người 79 mùa xuân, “tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực lànhững bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trênđất nước và thế giới về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớthương, yêu quý, tự hào của mình hay tràng hoa ấy còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người đang xếp hàng mỗi ngày viếng lăng Bác nối đuôi nhau kết thành tràng hoa bất tận để dâng lên người 79 mùa xuân, 79 năm cuộc đời. Hình ảnh chính là lòng biết ơn sâu sắc, thành kính của nhân dân đối với vị cha già kính yêu.
Ngoài lăng là vậy khi vào trong lăng, không khí thật trang nghiêm như ngưng đọng cả không gian lẫn thời gian, sự yên tĩnh trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo của không gian trong lăng đã dược miêu tả qua khổ thơ:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủbình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.Hình ảnh Bác giấc ngủ bình yên, giữa một vầng trăng sáng dịu hiền câu thơ thực và mộng gời nhiều liên tưởng. Vầng trăng ấygợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Đúng là Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấuhiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy! Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Trời xanh chính hình ảnh thiên nhiên tồn tại vĩnh hằng và mãi mãi cũng giống như Bác vẫn còn mãi với non song đất nước nhưng sao vẫn còn nghe nhói ở trong tim. Đó chính là nỗi đau quặn thắt, nỗi đau mất mát tột cùng trong tim, nỗi đau không thể diễn tả thành lời, nỗi đau ấy không chỉ của riêng tác giả mà còn là nỗi đau của triệu đồng bào triệu trái tim Việt Nam.
Cuối cùng cảm xúc dâng trào sau giây phút ngắn ngủi bên người, để mai trở về miền Nam, những ước nguyện muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật nơi đây để mãi được ở bên Người
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”,”đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Thương trào nước mắt đó là một tình cảm rất thực không chỉ ở nhà thơ mà bất cứ ai đến viếng Bác. Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để có thể canh giữ giấc ngủ cho người. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơcuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọnvẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác. Bài thơ Viếng lăng Báckhép lại mà lòng biết bao lưu luyến nhớ thương, không muốn rời xa.
Tóm lại bằng sự sử dụng thành công các biện pháp tu từ, sự trân thành từ đáy lòng nhà thơ bài thơ đã thể hiện được niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào đau xót của nhà thơ nói riêng và của toàn dân tộc Việt Nam nói chung đối với vị cha già đáng kính của dân tộc.
Bởi vì đây không phải là tình cảm của riêng tác giả mà cũng là tình cảm của nhân dân đối với Bác nói chung
Hình ảnh ẩn dụ:
- Mặt trời: hình ảnh ẩn dụ cho Bác, người là nguồn sống mang lại ánh sáng tự do hạnh phúc cho người Việt. Nói lên tư tưởng cách mạng, của nhà thơ đối với Bác
- Vầng trăng: Tượng trưng cho tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Đó cũng là biểu hiện của rực rỡ, vĩ đại như con người và sự nghiệp của Bác
- Tràng hoa: hình ảnh tượng trưng cho sự thành kính, tấm lòng biết ơn, nhớ thương của người dân đối với Bác
- Tình cảm chủ đạo của tác giả: Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân nổi tiếng và trong số rất nhiều tên tuổi nổi tiếng, Viễn Phương với bài thơ "Viếng lăng Bác" vẫn để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu đậm. Bài thơ là những tình cảm chân thành nhất, sâu nặng nhất của tác giả và đồng bào miền Nam dành cho vị Cha già kính yêu vĩ đại của dân tộc.
Viễn Phương viết bài thơ "Viếng lăng Bác" năm 1976, một năm sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất đồng thời cũng là thời điểm lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành. Nhà thơ có dịp ra Bắc thăm lăng Bác Hồ với tâm trạng xúc động vô bờ bến, cũng chính điều này đã tạo nguồn cảm hứng để tác giả sáng tác bài thơ đầy xúc cảm này.
Ngay ở khổ thơ đầu, một khung cảnh bên ngoài lăng đã được tác giả giới thiệu một cách rất tự nhiên và chân thật:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Trước lăng Bác là tâm trạng xúc động, là tiếng lòng của một người con miền Nam sau biết bao ngày tháng mong chờ được ra Bắc viếng lăng Bác. Ngay ở câu thơ đầu tiên: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác" như một lời thông báo, giới thiệu giản dị nhưng chứa chan bao tình cảm thân thương. Với cách xưng hô "Con - Bác" người đọc như cảm nhận được tình cảm vừa gần gũi, vừa thân thiết lại thành kính của một người con đi xa lâu ngày nay được trở về gặp lại người cha kính yêu của dân tộc. Qua đó ta cũng thấy được giữa lãnh tụ và quần chúng không hề có khoảng cách, mà có sự gắn kết mật thiết với nhau. Cụm từ "con ở miền Nam" vừa chứa đựng một nỗi đau mất mát, vừa thể hiện được niềm tự hào lớn lao. Miền Nam gian khổ mà anh dũng, đã bao nhiêu năm chiến đấu hi sinh, để có được ngày đất nước thống nhất, vậy mà Bác lại không cùng chung vui niềm vui ấy với hàng triệu trái tim nước nhà. Nỗi đau ấy như được vơi bớt đi phần nào với cách dùng từ thay thế tinh tế của nhà thơ. Từ "thăm" thay cho từ "viếng" như làm dịu đi nỗi đau mất Bác và ẩn sau trong đáy lòng mỗi con người Việt Nam: Bác Hồ vẫn còn sống.
Sau tâm trạng ấy là một khung cảnh hàng tre bát ngát hiện ra trước mắt nhà thơ khi đứng trước lăng. Từ xa xưa, hình ảnh cây tre đã trở nên quen thuộc, gần gũi với mỗi một miền quê, nay nó được nhân hóa như hình ảnh con người Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp: bền bỉ, kiên cường, hiên ngang trước mọi khó khăn, thử thách. Hàng tre mà đất nước - đại diện cho dân tộc luôn trung thành gắn bó, canh giấc ngủ yên bình cho Người. Với từ cảm thán "Ôi!" mà nhà thơ sử dụng đã biểu hiện niềm xúc động xen lẫn tự hào trước hình ảnh hàng tre. Có thể nói, hình ảnh tre là khúc nhạc dạo đầu nói lên niềm xúc động bồi hồi của nhà thơ khi đến bên Lăng Bác.
Nối tiếp nỗi niềm xúc động đó, là cảm xúc của tác giả trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Với một tấm lòng biết ơn, ngưỡng mộ và kính yêu vị lãnh tụ của dân tộc. Tác giả mượn hình ảnh "mặt trời" để biểu tượng cho hình ảnh Bác trong lòng hàng triệu trái tim Việt Nam. Một hình ảnh thật đẹp và giàu sức sáng tạo. Nếu ở trên là mặt trời thiên nhiên soi sáng không gian và mang lại sự sống cho muôn loài, thì ở câu thơ dưới "mặt trời" là một hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác. Bác là nhà cách mạng tài ba mang đến ánh sáng cách mạng, đem đến cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Với chi tiết "rất đỏ" đã làm cho câu thơ thêm ấn tượng sâu sắc, cho ta thấy một trái tim đầy nhiệt huyết luôn khi hi sinh vì nước, vì dân và một trái tim ấm nóng luôn dành những tình cảm thân thương nhất cho đồng bào cả nước. Màu đỏ ấy như xua tan đi nỗi đau mất mát, làm ấm lại khung cảnh đau thương.
Khi hòa cùng dòng người vào viếng lăng Bác, nhà thơ bồi hổi, xúc động:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Với điệp từ "ngày ngày" vừa gợi ấn tượng về cái trường sinh vĩnh viễn, về quy luật của dòng người vào lăng viếng Bác cũng như quy luật tự nhiên của tạo hóa. Vừa gợi lên tấm lòng của nhân dân không nguôi nhớ Bác. Hình ảnh "dòng người đi trong thương nhớ" là một hình ảnh thực, gợi tả ngày ngày từng dòng người chầm chậm, thành kính vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương và biết ơn vô hạn. Hình ảnh đó được Viễn Phương ví như tràng hoa dâng lên Người bởi cuộc đời của họ đã được nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Bác. Một hình ảnh thật đẹp và giàu tính nhân văn.
Tiếp mạch cảm xúc ấy, là cảm xúc, là tình cảm dồn nén bấy lâu của nhà thơ khi đứng trước di hài của Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Giấc ngủ của Bác là giấc ngủ giữa vầng trăng, là giấc ngủ đêm bình thường chứ không phải giấc ngủ ngàn thu vĩnh viễn. Ta có cảm giác như Bác vẫn đang còn đó, Bác như vẫn đang bên cạnh chúng ta. Đây là một giấc ngủ "bình yên" trong niềm yêu thương con người và vạn vật. Đến đây ta lại thấy được ngòi bút của ông thật đặc sắc, giàu sáng tạo với việc lấy hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Hình ảnh "vầng trăng" gợi cho ta nghĩ đến vẻ đẹp tâm hồn trong sạch và thanh cao của Người.
Cảm xúc tự hào, ngưỡng mộ như lắng xuống nhường chỗ cho nỗi đau trào dâng không thể kìm nén:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Dẫu rằng lý trí vẫn cứ nghĩ là Bác còn sống mãi với chúng ta, nhưng sao tim ta vẫn đau nhói như nghẹn lại, không nói nên lời khi nhận ra một sự thật đau lòng: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là nỗi đau vô hạn, xót thương. Lời thơ như tiếng khóc nghẹn ngào của đứa con về muộn bên di hài người Cha của mình. Và tiếp tục, hình ảnh của vũ trụ: "trời xanh" lại được nhà thơ nói đến như những gì kì vĩ, cao cả, bất diệt, vĩnh hằng như để ca ngợi tầm vóc lớn lao, đồng thời thể hiện lòng kính trọng của nhà thơ đối với Bác.
Nếu như ở trên, nỗi đau ấy mới chỉ âm ỉ, đau nhói thì đến khổ thơ cuối, khi sắp phải trở lại miền Nam, nhà thơ bỗng trào dâng niềm cảm xúc. Lòng thương nhớ bao lâu nay đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào:
Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Mai về miền Nam, nhớ Bác không nguôi
Hai câu thơ như một lời giã biệt, từ "trào" diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn, lưu luyến không muốn chia xa. Đó là nỗi đau không chỉ của riêng tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau mất Bác. Tình cảm ấy, cảm xúc ấy đã lên đến đỉnh điểm của sự tột cùng, bởi vậy mà nhà thơ có ước mong muốn hóa thân thành "con chim hót quanh lăng", làm "đóa hoa tỏa hương", làm "cây tre trung hiếu" để được sống mãi cùng Người, để được báo đáp công ơn mà Bác đã mang đến cho nhân loại:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Như chúng ta đã biết, mở đầu bài thơ hình ảnh cây tre được nhà thơ nói đến. Và đến cuối bài thơ, "cây tre" cũng được nhà thơ nhắc lại. Nhưng, lúc này cây tre đã mang thêm một ý nghĩa mới. Nó không còn là cây tre mang ý nghĩa bình thường nữa, mà đó là lòng kính yêu và ước nguyện thủy chung tiếp tục đi theo con đường, lý tưởng cách mạng mà Bác đã chọn cho dân tộc.
Bài thơ khép lại trong sự xa cách về không gian, nhưng lại tạo được sự gần gũi trong ý chí, tình cảm. Bằng tất cả tình yêu thương chân thành, Viễn Phương đã bộc lộ hết những cung bậc cảm xúc của mình qua những vần thơ. Và đó cũng chính là tình cảm của mỗi con dân miền Nam nói riêng và của cả nhân loại nói chung dành cho Bác.
Khi hòa cùng dòng người vào viếng lăng Bác, nhà thơ bồi hổi, xúc động:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Với điệp từ "ngày ngày" vừa gợi ấn tượng về cái trường sinh vĩnh viễn, về quy luật của dòng người vào lăng viếng Bác cũng như quy luật tự nhiên của tạo hóa. Vừa gợi lên tấm lòng của nhân dân không nguôi nhớ Bác. Hình ảnh "dòng người đi trong thương nhớ" là một hình ảnh thực, gợi tả ngày ngày từng dòng người chầm chậm, thành kính vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương và biết ơn vô hạn. Hình ảnh đó được Viễn Phương ví như tràng hoa dâng lên Người bởi cuộc đời của họ đã được nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Bác. Một hình ảnh thật đẹp và giàu tính nhân văn.
Tiếp mạch cảm xúc ấy, là cảm xúc, là tình cảm dồn nén bấy lâu của nhà thơ khi đứng trước di hài của Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Giấc ngủ của Bác là giấc ngủ giữa vầng trăng, là giấc ngủ đêm bình thường chứ không phải giấc ngủ ngàn thu vĩnh viễn. Ta có cảm giác như Bác vẫn đang còn đó, Bác như vẫn đang bên cạnh chúng ta. Đây là một giấc ngủ "bình yên" trong niềm yêu thương con người và vạn vật. Đến đây ta lại thấy được ngòi bút của ông thật đặc sắc, giàu sáng tạo với việc lấy hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Hình ảnh "vầng trăng" gợi cho ta nghĩ đến vẻ đẹp tâm hồn trong sạch và thanh cao của Người.
Cảm xúc tự hào, ngưỡng mộ như lắng xuống nhường chỗ cho nỗi đau trào dâng không thể kìm nén:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Dẫu rằng lý trí vẫn cứ nghĩ là Bác còn sống mãi với chúng ta, nhưng sao tim ta vẫn đau nhói như nghẹn lại, không nói nên lời khi nhận ra một sự thật đau lòng: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là nỗi đau vô hạn, xót thương. Lời thơ như tiếng khóc nghẹn ngào của đứa con về muộn bên di hài người Cha của mình. Và tiếp tục, hình ảnh của vũ trụ: "trời xanh" lại được nhà thơ nói đến như những gì kì vĩ, cao cả, bất diệt, vĩnh hằng như để ca ngợi tầm vóc lớn lao, đồng thời thể hiện lòng kính trọng của nhà thơ đối với Bác.
Nếu như ở trên, nỗi đau ấy mới chỉ âm ỉ, đau nhói thì đến khổ thơ cuối, khi sắp phải trở lại miền Nam, nhà thơ bỗng trào dâng niềm cảm xúc. Lòng thương nhớ bao lâu nay đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào:
Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Mai về miền Nam, nhớ Bác không nguôi
Hai câu thơ như một lời giã biệt, từ "trào" diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn, lưu luyến không muốn chia xa. Đó là nỗi đau không chỉ của riêng tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau mất Bác. Tình cảm ấy, cảm xúc ấy đã lên đến đỉnh điểm của sự tột cùng, bởi vậy mà nhà thơ có ước mong muốn hóa thân thành "con chim hót quanh lăng", làm "đóa hoa tỏa hương", làm "cây tre trung hiếu" để được sống mãi cùng Người, để được báo đáp công ơn mà Bác đã mang đến cho nhân loại:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Như chúng ta đã biết, mở đầu bài thơ hình ảnh cây tre được nhà thơ nói đến. Và đến cuối bài thơ, "cây tre" cũng được nhà thơ nhắc lại. Nhưng, lúc này cây tre đã mang thêm một ý nghĩa mới. Nó không còn là cây tre mang ý nghĩa bình thường nữa, mà đó là lòng kính yêu và ước nguyện thủy chung tiếp tục đi theo con đường, lý tưởng cách mạng mà Bác đã chọn cho dân tộc.
Bài thơ khép lại trong sự xa cách về không gian, nhưng lại tạo được sự gần gũi trong ý chí, tình cảm. Bằng tất cả tình yêu thương chân thành, Viễn Phương đã bộc lộ hết những cung bậc cảm xúc của mình qua những vần thơ. Và đó cũng chính là tình cảm của mỗi con dân miền Nam nói riêng và của cả nhân loại nói chung dành cho Bác.
Đối với mỗi người dân Việt Nam ai ai cũng có một lòng kính yêu chân thành nhất đối với Bác Hồ - vị cha già vĩ đại của dân tộc. Mặc dù Bác đã ra đi nhưng tình cảm chân thành tha thiết của nhân dân ta đối với Bác vẫn luôn còn mãi. Tình cảm đó đã được nhà thơ Thanh Hải thể hiện thành công qua bài Viếng lăng Bác. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, bài thơ đã nói hộ lòng người rằng: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.
Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Bài thơ cho chúng ta thấy được lòng kính yêu tha thiết của nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung đối với Bác. Tình cảm thiết tha ấy được thể hiện theo mạch cảm xúc khi ở ngoài lăng, khi vào trong lăng và cuối cùng là khi ra về.
Như một người con xa, nay mới có dịp được trở về viếng thăm “người cha” đã khuất, Viễn Phương vô cùng bồi hồi, xúc động:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Câu thơ đầu tiên, thể hiện sự xúc động trào dâng của tác giả. Đó là tình cảm rất đỗi chân thành của một người con miền nam đối với vị cha già của dân tộc. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng máu thịt. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.Trong giây phút xúc động ngẹn ngào ấy, hình ảnh “hàng tre bát ngát” trong sương sớm hiện lên thật đẹp khiến nhà thơ phải thốt lên:
"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng".
Khung cảnh ở đây thật thiêng liêng. Hình ảnh hàng tre bát ngát gợi lên một quang cảnh đẹp mang đậm nét làng quê. Cảnh quang ấy đã làm cho nhà thơ cảm nhận nơi đó có một linh hồn quen thuộc của quê hương đất Việt. Tre hiện lên trong bài thơ cũng giống như hình ảnh con người Việt Nam anh hùng bất khuất vậy. Dù có gặp bao khó khăn, hiểm nguy, gian khó, con người Việt Nam vẫn hăng say lao động, hiên ngang, yêu nước và sẵn sàng chiến đấu quên mình để bảo vệ từng tấc đất quê hương. Cây tre đứng thẳng hàng trong bão táp mang ý nghĩa biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc trước thăng trầm lịch sử.
Theo đoàn người, nhà thơ vào thăm lăng Bác, ông đã nhìn thấy:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ".
“Mặt trời’’ đi qua trên lăng là hình ảnh thật của vũ trụ-Mặt trời mang sự sống đến cho vạn vật làm sâu sắt hơn ý nghĩa của hình ảnh ẩn dụ.Với niềm tiếc thương vô hạn và biết ơn sâu sắc, đứng giữa quảng trường Ba Đình, nhà thơ thấy một mặt trời đi qua trên lăng, đó là mặt trời của thiên nhiên. Còn nhìn vào bên trong lăng, vẫn có một mặt trời đỏ rực là Bác Hồ. Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” thật đẹp. Bởi trái đất này làm sao có thể tổn tại nếu không có mặt trời. Nó cũng giống nhưđất nước Việt Nam nhờ có Bác mới có cuộc sống độc lập tự do như ngày hôm nay Bác là người đã soi sáng, dẫn dường đưa dân tộc Việt Nam đến với độc lập, tự do. Bằng hình ảnh này, tác giả đã thể hiện tấm lòng biết ơn thành kính nhất đối với.Bác – người đem lại cho nhân dân, cho đất nước ta một cuộc sống mới hạnh phúc, tự do. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo của tác giả. Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân".
Không chỉ có một ngày, hai ngày mà ngày ngày đều có người đến viếng lăng Bác. Dòng người như một tràng hoa với muôn ngàn sắc hương từ mọi miền đất nước dâng lên Bác. Trong khung cảnh trang nghiêm, tĩnh lặng ấy, ai cũng xúc động, thành kính và tỏ lòng biết ơn sâu sắc. Thêm một hình ảnh ẩn dụ so sánh đặc sắc khác nữa khi nhà thơ không nói Bác bảy mươi chín tuổi, mà thay vào đó ông nói “bảy mươi chín mùa xuân”. Cách ví von so ánh giàu sức gợi, bởi lẽ bảy mươi chín năm qua của Người hi sinh cho dân tộc Việt Nam, bảy mươi chín năm của Người là bảy mươi chín mùa xuân mang đến những bông hoa đẹp đẽ, tỏa ngát hương thơm và rực rỡ nhất. Sau bảy mươi chín năm “trọn một đời Bác có ngủ yên đâu” thì giờ Người được nằm trong lăng với giấc ngủ bình yên:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Tác giả đã cho ta cảm nhận không gian và thời gian như ngưng đọng trước một hình ảnh thiêng liêng. Ta cảm nhận như Bác chỉ là đang ngủ một giấc ngủ bình yên chứ không phải Bác đi về cõi vĩnh hằng. Bác đã ra đi nhưng trong trái tim mỗi người dân Việt Nam thì Bác như còn sống mãi, tấm lòng yêu thương Bác dành cho dân tộc như mãi ở bên. Vầng trăng sáng ấy thật trong trẻo, thật tinh khiết gợi lên tấm lòng của Bác và cũng gợi lên những bài thơ đầy ánh trăng của Bác. Nỗi đau mất Bác trong lòng mỗi người dân Việt Nam nói chung và trong lòng mỗi người dân miền Nam nói riêng được xoa dịu bớt phần nào khi Bác yên nghỉ trong không gian rất tĩnh lặng. Lặng nhìn giấc ngủ bình yên nơi di hài Bác, nhà thơ vẫn không sao kìm nén được niềm xúc động, nỗi đau khi nhìn về sự thật rằng Người đã ra đi. Nhà thơ dùng hình ảnh “ trời xanh là mãi mãi” một cách tinh tế để kìm nén lại sự mất mát lớn lao này nhưng vẫn thấy “nhói ở trong tim”. Nỗi đau ấy nó âm thầm nhưng thể hiện sự tiếc nuối vô hạn đối với vị lãnh tụ, vị cha già kính yêu.
Tinh cảm của tác giả cũng như của nhân dân ta đối với Bác được thể hiện rõ nét nhất ở khổ cuối bài thơ.
"Mai về miền nam thương trào nước mắt
Mai về miền nam nhớ Bác khôn nguôi
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Điệp ngữ muốn làm lặp lại ba lần đã gợi tả cảm xúc thiết tha, tình yêu nồng cháy của tác giả đối với Bác. Nhà thơ muốn làm con chim ca hát và làm đóa hoa tỏa ngát hương thơm để đem niềm vui đến cho Bác, muôn tỏ lòng trung hiếu để đền đáp công ơn như trời biển của Bác, muốn ở mãi nơi lăng Bác như hàng tre xanh ngát bốn mùa ở Ba Đình lịch sử. Ước muốn của tác giả chỉ giản đơn là được ngày ngày ở bên Bác nhưng đấy lại là ước muốn cháy bỏng, chân thành và thiết tha nhất. Cảm xúc mãnh liệt của tác giả giờ đây được dâng trào, được thể hiện rất mạnh mẽ: Mai về miền Nam thương trào nước mắt. Những giọt nước mắt ấy thôi cũng đủ nói lên tất cả, đủ thể hiện hết nỗi lòng của người dân Việt Nam. Giọt nước mắt ấy là chân thành và còn có sức truyền cảm mạnh mẽ hơn mọi lời nói.
Viếng lăng Bác là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ. Bài thơ là “một nén hương trầm thơm ngát thành kính dâng lên Bác”, để lại trong trái tim người đọc nhiều dư vang sâu lắng.
Bài thơ Viếng lăng Bác có thể là tiếng lòng của nhân dân miền Nam đối với Bác mà nhà thơ Viễn Phương đã thay họ nói lên. Bài thơ cho chúng ta thấy được lòng kính yêu tha thiết của nhân dân miền Nam đối với Bác. Tình cảm thiết tha ấy được thể hiện theo mạch cảm xúc khi ở ngoài lăng, khi vào trong lăng và cuối cùng là khi ra về. Tình cảm ấy được thể hiện rất tự nhiên, chân thành bằng những ngôn từ giản dị nhưng đầy cảm xúc.
Tình cảm của tác giả được thể hiện theo mạch cảm xúc khi ở ngoài lăng, khi vào trong lăng và khi ra về. Lời đầu tiên mà tác giả nói với Bác là một lời thông báo nhưng cũng rất thân mật, gần gũi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Với lời xưng hô thân mật tạo cho chúng ta cảm nhận như một người con về thăm cha, tác giả đã thể hiện vị trí của Bác trong lòng những người dân miền Nam. Bác như một người cha chung, một người cha vĩ đại của toàn dân tộc ta. Khi đến thăm lăng Bác, cảm nhận của tác giả là cảm giác rất thân quen, gần gũi với hình ảnh hàng tre. Hình ảnh hàng tre vừa kiên cường vừa bình dị, gần gũi, là hình ảnh đầu tiên bắt gặp khi đến thăm lăng Bác và cũng là hình ảnh đầu tiên khơi gợi những cảm xúc trong trẻo nhất. Cảm xúc của tác giả ở ngoài lăng, khi thấy những dòng người xếp hàng vào viếng Bác là cảm xúc biết ơn, lòng thành kính biết ơn Bác. Khi ở trong lăng Bác, trong không khí yên lặng, thời gian, không gian như ngưng kết lại, tác giả đã rất đau đớn, xót xa trước sự ra đi của Bác. Nỗi đau ấy nhói lên trong tim, là nỗi đau, là sự mất mát của hàng triệu người dân Việt Nam cũng như của toàn bộ nhân dân miền Nam. Khi ra về, tác giả đã tỏ ra rất lưu luyến, muốn được ở lại mãi bên lăng Bác. Theo mạch cảm xúc ấy, tình cảm kính yêu tha thiết của tác giả được bộc lộ chân thành, tự nhiên.
Qua những hình ảnh thơ rất hay, rất đặc sắc, tình cảm của những người dân miền Nam cũng được tác giả thể hiện rất thành công:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Hình ảnh mặt trời trong hai câu thơ trên đã có sự chuyển nghĩa tạo nên một hình ảnh thơ đầy tính nghệ thuật. Nếu như trong câu thơ thứ nhất, mặt trời chính là thiên thể vĩ đại nhất của vũ trụ, đóng vai trò quyết định đến cuộc sống của cả nhân loại thì trong câu thơ thứ hai, mặt trời Hồ Chí Minh là mặt trời rất sáng, rất đỏ, rất thiêng liêng với dân tộc Việt Nam. Bác là người đã soi sáng, dẫn dường đưa dân tộc Việt Nam đến với độc lập, tự do. Bác Hồ được ví như một thiên thể vĩ đại trong vũ trụ rộng lớn. Bằng hình ảnh này, tác giả đã thể hiện tấm lòng biết ơn thành kính nhất đối với Bác. Tấm lòng ấy được thể hiện sâu sắc bằng hình ảnh tràng hoa. Đây là một hình ảnh ẩn dụ, thể hiện từng dòng người vào lăng viếng Bác, mỗi người họ như một bông hoa, kết lại dâng lên Bác tình cảm biết ơn thành kính nhất.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Bác đã ra đi nhưng trong trái tim mỗi người dân Việt Nam thì Bác như còn sống mãi, tấm lòng yêu thương Bác dành cho dân tộc như mãi ở bên. Vầng trăng sáng ấy thật trong trẻo, thật tinh khiết gợi lên tấm lòng của Bác và cũng gợi lên những bài thơ đầy ánh trăng của Bác. Nỗi đau mất Bác trong lòng mỗi người dân Việt Nam nói chung và trong lòng mỗi người dân miền Nam nói riêng được xoa dịu bớt phần nào khi Bác yên nghỉ trong không gian rất tĩnh lặng.
Tình cảm của nhân dân miền Nam theo em được thể hiện rõ nhất là trong khổ thơ cuối, thể hiện qua ước muốn được hoà nhập vào khung cảnh quanh lăng đế ngày ngày được ở bên Bác. Ước muốn ấy được thể hiện rất giản dị của hình ảnh bông hoa, con chim, hàng tre. Ước muốn của tác giả chỉ giản đơn là được ngày ngày ở bên Bác nhưng đấy lại là ước muốn cháy bỏng, chân thành và thiết tha nhất. Cảm xúc mãnh liệt của tác giả giờ đây được dâng trào, được thể hiện rất mạnh mẽ: Mai về miền Nam thương trào nước mắt. Những giọt nước mắt ấy thôi cũng đủ nói lên tất cả, đủ thể hiện hết nỗi lòng của người dân Việt Nam. Giọt nước mắt ấy là chân thành và còn có sức truyền cảm mạnh mẽ hơn mọi lời nói. Ước muốn của tác giả được nhấn mạnh khi tác giả dùng điệp ngữ muốn làm mở đầu ba câu thơ kết thúc cuối bài. Hình ảnh hàng tre được nhắc lại ở cuối bài tạo kết cấu đầu cuối tương ứng làm hoàn thiện cảm xúc của bài thơ, thể hiện trọn vẹn tấm lòng của tác giả.
Dùng những hình ảnh thơ đặc sắc, thể hiện tình cảm thiết tha, chân thành bằng lời thơ giản dị, chân thực, nhà thơ Viễn Phương đã nói thay lời cho hàng vạn nhân dân miền Nam, bày tỏ tình cảm, niềm kính yêu tha thiết nhất, lòng biết ơn thành kính nhất với Hồ Chủ tịch. Bài thơ rất giàu cảm xúc và để lại ấn tượng cho người đọc về những tình cảm rất chân thành và giản dị.