Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nhắc đến Nguyên Hồng là ta không khỏi nhắc đến một giọng văn chứa chan bao cảm xúc, nỗi đắng cay, khổ cực của một tuổi thơ khát khao tình mẹ. Nỗi buồn đó như được Nguyên Hồng in khắc sâu đậm vào cuốn hồi kí "Những ngày thơ ấu". Tác phẩm gồm có 9 chương và đoạn trích "Trong lòng mẹ" nằm ở chương IV. Đoạn trích kể về những ngày đơn độc của bé Hồng trong những ngày xa mẹ. Bé Hồng được sinh ra trong 1 gia đình bất hạnh: người cha nghiện ngập rồi chết dần chết mòn bên đèn thuốc, người mẹ quá túng quẫn phải đi tha phương cầu thực, bỏ mặc cậu với bà cô cay nghiệt, luôn gieo rắc vào đầu cậu những hoài nghi để cậu khinh miệt và ruồng rẫy mẹ. Nhưng càng như vậy, nỗi nhớ mẹ và khát khao được gặp mẹ lại càng cháy bỏng trong tâm hồn non nớt của cậu bé. Hồng càng thương mẹ, tin tưởng vào mẹ hơn. Giữa bao cái cay nghiệt quá lớn đối với 1 đứa trẻ, tác giả đã giúp bạn đọc nhận ra 1 sự thật tự nhiên: Mẹ chỉ có một trên đời, tình mẹ con trong lòng bé Hồng là 1 mối giao cảm bền chặt không thể nào chia cắt. Chỉ qua 1 đoạn trích ngắn nhưng bạn đọc không thể không xúc động trước tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt ấy. Đoạn trích cho ta hiểu được tình cảnh đáng thương, nỗi đau tinh thần của chú bé Hồng, đồng thời cảm nhận được nỗi khát khao sự ấm áp của tình mẹ thiêng liêng cao đẹp của bé Hồng. Đó là bài ca về tình mẫu tử. .
Hồng rất thương mẹ. Hồng hiểu nỗi lòng của mẹ. Do đó em tin thế nào cũng có lúc em cũng sẽ được gặp lại mẹ trở về. Và niềm tin cùa em đã không phải là vô vọng: Chiều hôm đó, tan buổi học ở trường ra, tôi chợt thoáng thấy một bóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ tôi. Tôi liền đuổi theo, gọi bối rối: Mẹ ơi! Mẹ ơi!... Chưa biết chắc là mẹ mình nhưng sự mong mỏi, nỗi nhớ da diết về mẹ đã khiến chú bé Hồng không thể nào cưỡng lại được tiếng gọi đó nữa. Nếu Hồng nhầm thì sao? Hồng bộc bạch chân thành: ... cái lầm đó không những làm tôi thẹn mà còn tủi cực nữa, khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc. Còn gì vui sướng, hạnh phúc khi trước mắt Hồng là hình ảnh: mẹ tôi cầm nón vẫy tôi. Đó là cử chỉ âu yếm, thiết tha, là tình cảm ngọt ngào nhất mẹ dành cho đứa con yêu. Hồng sung sướng chạy về phía mẹ: Tôi thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, và khi trèo lên xe, tôi ríu rít cả chân lại. Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi, thì tôi òa lên khóc rồi cứ thế nức nở. Ta như nghe thấy nhịp đập gấp gáp đang run lên từ trái tim non nớt của Hồng, hạnh phúc đến một cách đột ngột bất ngờ khiến em cuống quít, vụng về. Dường như bao nhiêu buồn thương, căm giận, vui mừng và hạnh phúc đều vờ òa ra trong tiếng khóc ấy. Dẫu sao Hồng cũng như người đang đi giữa sa mạc đã tìm thấy dòng nước mát lành làm dịu đi một phần những cơn khô khát. Trong cái nhìn vô vàn yêu thương của đứa con, người mẹ hiện lên tuyệt đẹp: gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má. Người mẹ đẹp như một thiên thần. Bà là một phụ nữ vẫn còn xuân sắc và dồi dào sức sống. Hồng như muốn ôm hết cả hình bóng mẹ vào trong mát của mình cho thỏa thích.
Thế rồi, Hồng ngây ngất, sung sướng tận hưởng tình mẫu tử khi được sà vào lòng mẹ: Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngã vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bồng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường. Em đã mong mỏi những giây phút ấy qua biết bao nhiêu ngày tháng cùng với bao nhiêu là nước mắt. Em đê mê, sung sướng trong tấm lòng ấm áp của mẹ kính yêu. Nhà văn đã đưa vào lòng hồi kí của mình một lời bình tự nhiên, nhẹ nhàng và thấm thía: Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng. Lời bình trữ tình như rót thêm mật ngọt vào tâm hồn bạn đọc để bạn đọc càng thấm thía hơn cái tình mầu tử thiêng liêng, sâu nặng.
Không còn cha nhưng giờ đây Hồng đã có mẹ. Mẹ sẽ là niềm an ủi, là chỗ dựa vững chắc cho em trong cuộc đời. Chính niềm tin và tình yêu mãnh liệt đã giúp em chiến thắng tất cả mọi cái ác, giữ được mình, để hôm nay em được thỏa thích trong vòng tay ấm áp cùng tấm lòng nồng nàn tình yêu thương của mẹ.
Qua cuộc hội ngộ đầy cảm động của bé Hồng với mẹ, nhà văn muốn nói với chúng ta một điều: Không một thế lực nào có thể ngăn cản, phá vỡ được tình mẫu tử. Ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc trong những trang hồi kí của Nguyên Hồng là ở đó. Với thành công ấy, tác phẩm Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng sẽ sống mãi trong tâm hồn dân tộc.
1. Lão Hạc - Nam Cao
2. Văn bản Trong lòng mẹ (trích Những ngày thơ ấu) - Nguyên Hồng.
Lí do: Tác giả kể lại những kỉ niệm ấu thơ của mình.
3. Vản bản Tức nước vỡ bờ (trích Tắt đèn - Ngô Tất Tố)
Phẩm chất của người phụ nữ: yêu chồng, thương con, đảm đang, tháo vát, bản lĩnh, dũng cảm, bất khuất.
4. Nhan đề "Tức nước vỡ bờ" - lấy từ câu tục ngữ, chỉ tình trạng con người bị áp bức nhiều sẽ vùng dậy, đứng lên chống trả.
(đúng chưa bn)
Sau đám tang thầy, bé Hồng đã đội mũ trắng, cuốn bang đen để tang thầy. Một hôm, cô bé Hồng gọi bé vào nói chuyện riêng. Bà cô vì muốn để cho bé Hồng ghét mẹ mình nên đã kể xấu mẹ Hồng với Hồng bằng giọng ngọt ngào giả tạo khiến cho bé Hồng vô cùng đau lòng, thậm chí bà cô còn bảo bé Hồng vào Thanh Hóa tìm mẹ và em bé. Tuy mẹ đã đi xa lâu lại không viết cho Hồng lấy một lá thư, bé Hồng vẫn kiên quyết bảo vệ và tin tưởng mẹ trước những lời ác ý của bà cô. Ngày hôm sau đi học, khi thoáng thấy bóng người giống mẹ, Hồng đã không kìm được lòng mà chạy đuổi theo gọi mẹ và đó đúng là mẹ Hồng về. Bé Hồng ngồi lên xe, được mẹ ôm vào lòng, vuốt ve như ngày còn bé, mọi đau đớn như tan biến và chỉ còn niềm hạnh phúc khi được nằm trong vòng tay ấm áp của mẹ.
THAM KHẢO
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả tác phẩm:
+ Trong lòng mẹ là một hồi ức buồn, pha lẫn chút xót xa, cay đắng về tuổi thơ thiếu vắng tình mẹ của Nguyên Hồng, nhưng cũng chính nhờ tình mẹ thiêng liêng ấy đã tạo nên sức mạnh chở che, an ủi tác giả vượt qua những cay đắng, tủi nhục, bất hạnh...
- Cảm nhận chung về tình mẹ:
+ Mẹ là sợi dây tình cảm thiêng liêng không thể chia lìa, nơi chất chứa bao yêu thương, ấm áp, tình thương bao la, chở che tâm hồn của mỗi người...
2. Thân bài:
* Tuổi thơ bất hạnh, thiếu vắng tình mẹ:
- Cha nghiện ngập rồi chết
- Mẹ vì túng thiếu mà phải tha phương cầu thực
- Sống trong sự cay nghiệt của họ hàng nhất là bà cô, luôn tìm cách làm xấu đi hình ảnh người mẹ trong lòng đứa cháu mình.
- Một đứa trẻ sống xa vòng tay mẹ, chịu đựng sự ghẻ lạnh của họ hàng, những câu nói cay độc và ký ức tuổi thơ hãi hùng qua ngòi bút của tác giả.
* Tình cảm trọn vẹn bé Hồng dành cho mẹ:
- Trong mắt trẻ thơ, hình ảnh mẹ luôn tốt và đẹp một cách trọn vẹn nhất.
- Tình cảm dành cho mẹ đủ lớn để vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo vào lòng tác giả với vẻ đầy sự khinh khi, miệt thị, xỉ vả...( dẫn chứng..." vì tôi biết rõ...nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị...."..)
* Sự chịu đựng của đứa trẻ thơ trước lời cay độc của họ hàng:
- Vì thương mẹ nên thấy đau đớn, tủi nhục trước những lời miệt thị của mọi người dành cho mẹ...( dẫn chứng...)
- Kiên quyết bảo vệ tình yêu thương sâu sắc dành cho mẹ, không vì bị mọi người mỉa mai, dèm pha mà ghét mẹ... ( dẫn chứng...)
- Kiên quyết bảo vệ mẹ mình trước những thành kiến ác độc của bà cô, hiểu và cảm thông hoàn cảnh nên mẹ phải đi xa...( dẫn chứng...)
- Phải có tình yêu thương sâu sắc lắm một đứa trẻ thơ mới có thể giữ vững niềm tin về mẹ, tình yêu về mẹ một cách trọn vẹn nhất.
* Niềm tin mẹ sẽ trở về, nỗi chờ mong và giây phút hạnh phúc khi gặp lại mẹ:
- Bé Hồng vẫn giữ vững niềm tin mẹ vẫn yêu thương mình, và nhất định có ngày trở về ( dẫn chứng...)
- Nỗi khát khao cháy bỗng được gặp mẹ lúc nào cũng thường trực trong tâm hồn cậu bé ( dẫn chứng...)
- Nỗi lo sợ, hồi hợp khi sợ nhận lầm mẹ đã lột tả hết niềm khao khát ấy, sợ nhận lầm, tủi nhục vì chúng bạn cười....( dẫn chứng...)
- Hình ảnh mẹ ngay giây phút gặp lại vẫn đẹp như ngày nào...( dẫn chứng...)
- Giây phút hạnh phúc khi được sà vào lòng mẹ, cảm nhận sự ấm áp, bảo bộc, chở che, yêu thương,...( dẫn chứng...)
- Chính nhờ tình yêu thương mẹ trọn vẹn và sâu sắc nhất mà tác giả đã giữ được trọn vẹn niềm tin, tình yêu thương dành cho mẹ ( dẫn chứng...)
- Ngay giây phút đó, tác giả không quan tâm gì khác ngoài những hạnh phúc đông đầy trong ngày đoàn tụ với mẹ sau bao năm xa cách trong thương nhớ, chờ mong....( dẫn chứng...)
3. Kết Luận:
- Tác phẩm đã vẽ lên tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý và ấm áp
- Không gì có thể thay thế, xóa nhòa đi hình ảnh người mẹ trong lòng con trẻ, và nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ...
- Ngòi bút của Nguyên Hồng đã khơi lại tình cảm ấm áp trong lòng của mỗi người về tình mẫu tử thiêng liêng
Ý kiến khẳng định tình cảm yêu thương, kính trọng cha mẹ là thứ tình cảm thiêng liêng cao quý. Chúng ta cần phải trân trọng, nuôi dưỡng tình cảm ấy; phê phán, lên án gay gắt những người chà đạp lên tình yêu thương ấy.
Bài viết triển khai các ý sau:
- Vì sao sự yêu thương, kính trọng cha mẹ lại là tình cảm thiêng liêng nhất.
- Những biểu hiện chứng tỏ sự yêu thương, kính trọng cha mẹ.
- Xã hội ngày nay vẫn có những đứa con bất hiếu với cha mẹ.
- Bài học của bản thân.
Hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam đã được hình thành trong suốt hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong sự giao lưu, tiếp thu, cải biến, chọn lọc những giá trị văn hoá của các dân tộc khác. Tuy vậy, cái cốt lõi trong hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam hoàn toàn bắt nguồn từ nền tảng của dân tộc, từ truyền thống hàng nghìn năm kiên trì chịu đựng gian khổ, khó khăn và vượt qua một cách oanh hệt các tác động khắc nghiệt khác nhau của tự nhiên và xã hội. Trong số những truyền thống vô cùng quý giá như tinh thần yêu nước, truyền thống cộng đồng, truyền thống dân chủ làng xã, quý trọng gia đình, truyền thống dung dị, chất phác, tiết kiệm, ghét thói phù phiếm xa hoa, truyền thống cần cù chịu đựng gian khổ, yêu trẻ, kính già, vi tha, bao dung, truyền thống hiếu học, ứng xử linh hoạt, thích nghi nhanh và dễ dàng hội nhập để tồn tại… thì nổi trội hơn cả là truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí tự lập tự cường.
Dĩ nhiên, bất cứ một dân tộc nào trên hành tinh này cũng đều có lòng yêu nước của họ. Lòng yêu nước đó tuy một phần là tình cảm rất tự nhiên, nhưng mặt khác quan trọng hơn, nó chính là sản phẩm của lịch sử, được hun đúc bởi chính lịch sử của dân tộc. Cùng với sự tiến triển của lịch sử Việt Nam, tinh thần yêu nước Việt Nam trở thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành một giá trị, một động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ thúc đẩy biết bao nhiêu thế hệ kiên cường và dũng cảm hi sinh để giành lại và bảo vệ độc lập của Tổ quốc, bảo vệ những phẩm giá của chính con người.
Tinh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Và theo Giáo sư Trần Văn Giàu: tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu lộ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam.
Tinh thần yêu nước là nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung của nó là lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc. Thực ra, trên thế giới, mỗi quốc gia, dân tộc đều có tình yêu đất nước, nhưng bản sắc, sự hình thành cũng như biểu hiện của nó lại có sự khác nhau. Ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng, chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức cao nhất, đứng đầu trong thang bậc giá trị truyền thống, và là hằng số trong mỗi người Việt Nam, là tiêu điểm của mọi tiêu điểm. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, luôn chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước, có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc, luôn tự hào về dân tộc…
Tinh thần yêu nước Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình dị, đơn sơ của mỗi người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến những người thân yêu ruột. thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là sản phẩm của sự phát triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.Tình yêu đất nước không chỉ gắn liền với quá trình xây dựng đất nước, nó còn được thể hiện rõ hơn trong quá trình bảo vệ đất nước. Trên thế giới, hầu như dân tộc nào cũng phải trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm lăng. Nhưng có lẽ không dân tộc nào lại phải trải qua quá trình giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc nhiều và đặc biệt như ở Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ III TCN đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta đã dành hơn nửa thời gian cho các cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống ngoại xâm, các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Không có một dân tộc nào trên thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như vậy và với những kẻ thù mạnh hơn rất nhiều. Chính tinh thần yêu nước nồng nàn đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm lược. Qua những cuộc chiến đấu trường kỳ đầy gian khổ đó, chủ nghĩa yêu nước đã trở thành dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam, trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh trong tâm hồn Việt Nam.
Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc trên thế giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song, tư tưởng ấy được hình thành sớm hay muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện cũng như chiều hướng phát triển của nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sứ mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nan là lịch sử đất tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù xâm lược (thời gian chống giặc ngoại xâm cộng lại lên tới trên 12 thế kỷ). Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngầm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đây. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khỉ Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"
Lịch sử là một minh chứng hùng hồn nhất cho những khẳng định trên. Từ thế kỷ thứ III TCN, dân tộc ta đã đánh tan cuộc xâm lược đầu tiên của bọn phong kiến phương Bắc do nhà Tần tiến hành. Từ năm 179 TCN đến năm 938, nước ta tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc (tổng cộng 1117 năm). Đây là thời kỳ đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật cường, sự vươn lên thần kỳ của dân tộc ta và kết thúc với chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các chiến thắng vang dội khác: Lê Hoàn đánh tan quân Tống, nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên – Mông, Lê Lợi đánh bại quân Minh, Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh… Rồi đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến p, chống Mỹ. Trong những cuộc chiến tranh tàn khốc đó, nếu không có tinh thần yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc, làm sao một dân tộc nhỏ yếu như chúng ta có thể làm nên những chiến trắng vang dội, đánh thắng được những kẻ thù mạnh nhất thế giới. Lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của dân tộc đã tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy sinh nơi chiến trường. Biết bao nhiêu người mẹ, người vợ đã tiễn chồng, tiễn con ra mặt trận mà không bao giờ còn được đón họ trở về. Đó là sự hy sinh to lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Bấy nhiêu thôi cũng đã quá đủ để có thể thấy rằng, tư tưởng yêu nước không phải là một triết lý để án đàm, nó là kim chỉ nam cho hành động, đem lại một sức mạnh to lớn, thúc đẩy dân tộc ta tiến lên. Hình thành từ sớm, lại được thử thách, khẳng định qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, được bổ sung, phát triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và thời đại, tinh thần yêu nước đó trở thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành một trong những giá trị truyền thống cao quý nhất, bền vững nhất của dân tộc ta. Yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần mà, theo Giáo sư Trần Văn Giàu: “vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất quan trọng là tuỳ thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta quên lãng và chôn vùi món vũ khí tinh thần ấy”.