Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1
1-9-1939 : Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh bùng nổ
9-1940 : I-ta-li-a-tấn công Ai Cập
26-6-1941 : Đức tấn công Liên Xô
7-12-1941 : Nhật tấn công Mĩ ở Ha-oai
1-1942 : Mặt trận Đồng minh chống phát xít thành lập
2-2-1943 : Chiến thắng Xta-lin-grat
6-6-1944 : Anh - Mĩ đổ bộ vào Bắc Pháp
2-5-1945 Berlin thất thủ dưới sự tấn công của Liên Xô
9-5-1945 : Phát xít Đức đầu hàng
6/8/1945 : Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai Thành Phố Hirosima và Nagasaki
15-8-1945 : Nhật đầu hàng, chiến tranh kết thú
2. Có sự thay đổi là nhiều nước tham chiến hơn và có sự hợp tác giữa quân đồng minh và phía xã hội chủ nghĩa. Vì do sự ngày càng hiếu chiến của Đức sau khi chiếm Pháp và bắt đầu tấn công Liên Xô
Vì cánh mạng tháng 10 Nga là cuộc cách mạng vĩ đại, đặt nền móng cho việc thành lập Liên bang Xô viết (Liên xô) mà sau này Liên xô đã giúp hàng loạt các nước giải phóng dân tộc, chứng tỏ năng lực cách mạng giai cấp công-nông cổ vũ tinh thần đấu tranh của giai cấp công-nông các nước thuộc địa,...
Vì sao người ta lấy CMT10 Nga làm mốc mở đầu thời kì lịch sử thế giới hiện đại?
Vì :
- Cách mạng tháng Mười Nga đã lật đổ chủ nghĩa tư bản làm cho nó không còn là 1 hệ thống duy nhất trên thế giới
-Ảnh hưởng đến phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế
=> Mở ra thời kì mới trong lịch sự - thời kì hiện đại
Câu 5: Nguyên nhân nào dẫn đến việc bùng nổ CTTG II?
* Nguyên nhân sâu xa:
- Do sự chệnh lệch trình độ phát triển giữa các nước tư bản, dẫn đến những mâu thuẫn về thuộc địa, thị trường.
- Việc tổ chức và phân chia thế giới theo hệ thống Véc-xai - Oa-sinh-tơn không còn phù hợp nữa. Đưa đến một cuộc chiến tranh mới để phân chia lại thế giới.
* Nguyên nhân trực tiếp:
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm những mâu thuẫn trở nên sâu sắc dẫn tới việc lên cầm quyền của chủ nghĩa phát xít với ý đồ gây chiến tranh để phân chia lại thế giới.
- Thủ phạm gây chiến là phát xít Đức, Nhật Bản Italia. Nhưng các cường quốc phương Tây lại dung túng, nhượng bộ, tạo điều kiện cho phát xít gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Câu 6: Thủ phạm gây ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai là chủ nghĩa phát xít, tuy nhiên, Anh, Pháp, Mĩ cũng phải chịu một phần trách nhiệm trong việc để Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, vì trước hành động xâm lược của phe phát xít, các nước này đều không hợp tác với Liên Xô để chống phát xít và nguy cơ chiến tranh, hơn nữa, các nước này còn thực hiện hành động dung dưỡng chủ nghĩa phát xít. Mặc khác cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng, đào sâu mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, đồng thời chính sách thỏa hiệp, nhượng bộ của các nước Anh, Pháp, Mĩ và âm mưu chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô đã tạo điều kiện để phát xít Đức, I-ta-li-a, Nhật châm ngòi lửa chiến tranh.
3. Ảnh hưởng và tác động của Cách mạng tháng Mười đối với phong trào giải phóng dân tộc. Tác động của cách mạng này đối với Việt Nam
-Đối với thế giới:
Cách mạng tháng Mười Nga là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nó đã xóa bỏ các giai cấp bóc lột, tư sản, địa chủ và chế độ người bóc lột người, đưa giai cấp vô sản bị áp bức, bóc lột nặng nề thành giai cấp đứng đầu và làm chủ xã hội; giải phóng nhân dân lao động, đưa người lao động từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của đất nước; ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử loài người, từ thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Cách mạng tháng Mười Nga đánh đổ chủ nghĩa đế quốc ở ngay “chính quốc”, đồng thời đánh vào hậu phương của nó là các nước thuộc địa của Nga hoàng; cổ vũ, lôi cuốn mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của những nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin. Cách mạng tháng Mười Nga có ý nghĩa lịch sử và tính chất quốc tế vô cùng sâu rộng; không một cuộc cách mạng nào trong thời
đại ngày nay lại không chịu ảnh hưởng sâu xa của Cách mạng tháng Mười. Nó cho thấy: trong thời đại ngày nay, sự kết hợp tất yếu và tự nhiên giữa cuộc đấu tranh vì dân chủ và cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội chẳng những là mục tiêu mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội, đưa xã hội loài người vươn tới tự do, công bằng, bình đẳng và văn minh.
-Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và cách mạng Việt Nam
Cách mạng tháng Mười Nga đã chỉ ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam
Đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam đều bị thất bại vì không có đường lối cứu nước đúng đắn. Giữa lúc đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sau gần 10 năm bôn ba tìm con đường cứu nước đã tiếp thu được ánh sáng của Cách mạng tháng Mười. Tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin, Nguyễn Ái Quốc sớm nắm bắt được cốt lõi trong tư tưởng của Lênin: vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Người khẳng định rằng, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt Nam với xu thế thời đại.
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng đã khẳng định đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng soi đường của Cách mạng tháng Mười Nga, với đường lối đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả; tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Cách mạng tháng Mười Nga khởi đầu sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và toàn diện của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam
Cách mạng tháng Mười Nga đã cổ vũ nhân dân ta đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Cũng từ đó, tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Liên Xô không ngừng củng cố và phát triển.
Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ to lớn, hiệu quả về nhiều mặt, nhất là trong lĩnh vực củng cố quốc phòng - an ninh của Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô, đó là một nhân tố quốc tế không thể thiếu trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất và xây dựng đất nước.
Những bài học kinh nghiệm chủ yếu của Cách mạng tháng Mười Nga về vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản; về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; về thiết lập và củng cố khối liên minh công nông; về phương pháp bạo lực cách mạng; về xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản…đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, đưa lại những thành công lớn trong quá trình bảo vệ, xây dựng đất nước.
4. Cách mạng Việt Nam kế thừa và phát huy những giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra rất phức tạp. Chủ nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Nhận thức sâu sắc những nguyên nhân và bài học sau các sự kiện chính trị xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên quyết khắc phục những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng Việt Nam gần 90 năm qua đã giành được những thắng lợi to lớn mang tính bước ngoặt lịch sử. Nhân dân ta kiên định sự nghiệp đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng và hướng tới là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Câu 1:
I. Hoàn Cảnh Lịch Sử Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga 1917
Sau cách mạng tháng Hai năm 1917, ở Nga xuất hiện hai chính quyền song song tồn tại, một bên là chính phủ tư sản lâm thời và một bên là chính quyền Xô Viết do Đảng Bôn- sê- vích đứng đầu. Trước tình hình đó Lê nin và Đảng Bôn- sê- vích quyết định chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tháng 4-1917, Lênin về nước để lãnh đạo cách mạng Nga đi đến thành công. Đêm ngày 24-10-1917 (6-11-1917), cuộc khởi nghĩa nổ phát súng đầu tiên ở thủ đô Pê-tơ-rô-grát. Đến ngày 25-10-1917(7-11-1917), Đảng Bôn – sê – vích đã làm chủ chính quyền ở thủ đô Pê-tơ-rô-grát, trừ cung điện Mùa Đông và một vài nơi. Cung điện Mùa Đông được giải phóng vào 2 giờ 10 phút ngày 26-3-1917, các bộ trưởng trong chính phủ lâm thời bị bắt giữ. Cuộc khởi nghĩa vũ trang tại Pê-tơ-rô-grát giành thắng lợi.
Ngày 25-10-1917 (7-11-1917) đã cuộc cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi hoàn toàn trên cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho nhân loại.
II. Ý Nghĩa Lịch Sử Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga Năm 1917
Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917 đã giải phóng cho nhân dân Nga và các dân tộc bị Đế quốc áp bức. Vì vậy, nó vừa có ý nghĩa sâu sắc đối với nước Nga vừa có ý nghĩa sâu sắc với phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc.
Đối với nước Nga: Cách mạng Tháng 10 đã mở ra một kỷ nguyên mới; tình hình đất nước Nga thay đổi hoàn toàn; xóa bỏ ách thống trị của phong kiến Nga và tư sản Nga thành lập chính quyền Xô Viết, nhân dân lao động được lên làm chủ đất nước và tiến tới xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Đối với thế giới: cách mạng Tháng 10 Nga có ý nghĩa sâu sắc đến tiến trình lịch sử và cục diện thế giới.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới đã tạo ra một chế độ xã hội chủ nghĩa; làm cho bản đồ thế giới có sự thay đổi.
Cách mạng Tháng 10 Nga cổ vũ mạnh mẽ và thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới.
Cách mạng Tháng 10 đã mở ra con đường giải phóng cho giai cấp công nhân và các dân tộc thuộc địa.
Cách mạng Tháng 10 đã làm cho phong trào cách mạng ở các nước phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông(đặc biệt là Việt Nam) có mối quan hệ mật thiết với nhau vì cùng chống lại một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
III. Tính Chất Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga năm 1917
Muốn đánh giá tính chất cách mạng tháng 10 Nga, chúng ta cần xét về đặc điểm của cuộc cách mạng đó:
Về đối tượng và mục đích của cuộc cách mạng: cách mạng Tháng 10 đã lật đổ ách thống trị của phong kiến và tư sản Nga, giải phóng nhân dân và các dân tộc bị đế quốc Nga áp bức để xây dựng một nhà nước mới tốt đẹp hơn – Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa.
Về giai cấp lãnh đạo: giai cấp lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng 10 Nga là giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng cộng sản Nga.
Về lực lượng tham gia: tham gia cuộc cách mạng có giai cấp công nhân, nông dân, trí thức tiểu tư sản và nhân dân các nước thuộc địa bị đế quốc Nga áp bức.
Về phương hướng phát triển của cách mạng: cuộc cách mạng đã phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn 1 đánh đổ phong kiến Nga hoàng (cách mạng Tháng Hai) và giai đoạn 2 đánh đổ giai cấp tư sản trong chính phủ lâm thời ( cách mạng Xã hội chủ nghĩa) , sau đó đưa nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi cách mạng thành công, chính quyền cách mạng đã tuyên bố về quyền bình đẳng của các dân tộc, tuyên bố giải phóng cho tất cả các dân tộc bị đế quốc Nga thống trị, trên cơ sở đó đưa đến sự ra đời Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết.
Căn cứ vào những đặc điểm trên ta thấy, cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vô sản. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng còn thực hiện cuộc giải phóng cho các dân tộc bị đế quốc Nga thống trị nên nó còn mang tính chất của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Như vậy cách mạng tháng Mười Nga vừa mang tính chất cách mạng vô sản và giải phóng dân tộc.
Với những chia sẻ trên đây mình mong các bạn nắm rõ hơn về cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, hào hùng , có ý nghĩa to lớn với thế giới. Đặc biệt là đối với Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Hãy để lại ý kiến dưới phần bình luận để trao đổi thêm về những kiến thức lịch sử thú vị và bổ ích nhé. Nếu các bạn thấy hữu ích hãy like và share để mang kiến thức đến với mọi người nhé. Một người giỏi là người biết chia sẻ kiến thức với mọi người.
Câu 2:
- Cách mạng tháng Hai năm 1917 đã lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế (Nga hoàng) và dẫn tới tình trạng hai chính quyền song song tồn tại: Chính phủ tư sản lâm thời và Xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính.
⟹ Hai chính quyền đại diện cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại lâu dài.
- Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích đã xác định mục tiêu và đường lối chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa (lật đổ chính quyền tư sản lâm thời). Thiết lập chính quyền thống nhất trong toàn quốc của Xô Viết, đưa nước Nga bước vào thời kì cách mạng xã hội chủ nghĩa.
⟹ Cách mạng tháng Mười bùng nổ (24-10-1917)
Vai trò của Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ 2
Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra ngày 1-9-1939 khi phát xít Đức tấn công Ba Lan. Sau khi chiếm hầu hết châu Âu, rạng sáng ngày 22-6-l941 phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Theo kế hoạch “Bacbarôt”, phát xít Đức hy vọng nhanh chóng đánh chiếm Liên Xô và “bắt thế giới đầu hàng”.
Ý thức được điều đó, Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân, Hồng quân Liên Xô sẵn sàng đương đầu với chủ nghĩa phát xít, không những vì nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc mà còn vì sự sống còn của toàn nhân loại. Sự thật lịch sử đã chứng minh: quân đội và nhân dân Liên Xô là người đóng vai trò quyết định trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
1) Hồng quân Liên Xô đã chịu đựng gánh nặng lớn nhất của chiến tranh và tiêu diệt đại bộ phận lực lượng phát xít trên mặt trận Xô - Đức
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, chiến sự diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu, mặt trận Bắc Phi, mặt trận Xô - Đức, mặt trận Thái Bình Dương... Nhìn chung, mặt trận nào cũng gay go, phức tạp và kèm theo những tổn thất vô cùng lớn lao. Tuy nhiên, nếu xét về trọng tâm chiến lược của quân đội phát xít, về cường độ chiến tranh và tác dụng quyết định của các chiến dịch đối với kết quả cuối cùng của toàn bộ cuộc chiến tranh thì mặt trận Xô - Đức được xếp ở vị trí đầu tiên.
Mặt trận Xô - Đức chính thức mở màn ngày 22-6-1941. Vào thời điểm đó tổng số quân của lực lượng vũ trang Đức là 8,5 triệu người và được biên chế thành 214 sư đoàn, trong đó 190 sư đoàn được phái sang mặt trận Xô – Đức (5,5 triệu quân). Tiềm lực quân sự của phát xít Đức cũng tăng lên nhanh chóng. Đến giữa năm 1941 Đức tập trung tại mặt trận phía Đông 10.000 máy bay và gần 6.000 xe tăng.
Chính tại mặt trận Xô - Đức, quân đội phát xít đã phải gánh chịu những tổn thất to lớn về người và vật chất: theo số liệu gần đây thì tổng số quân Đức bị chết, bị thương và bị bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai lên tới gần 14 triệu người, trong đó riêng ở mặt trận Xô - Đức là 10 triệu người.
Một khối lượng khổng lồ vũ khí, quân trang, quân dụng bị phá hủy hoặc bị tịch thu: 48.000 xe tăng, 77.000 máy bay và hàng triệu vũ khí các loại. Thắng lợi của Liên Xô trên mặt trận Xô - Đức mang tính quyết định đến toàn bộ kết quả của chiến tranh, đánh gục hoàn toàn chủ nghĩa phát xít Đức, tiến tới kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
2) Chiến thắng của quân đội Liên Xô làm thay đổi cục diện chiến tranh góp phần giành thắng lợi cho các lực lượng chống phát xít
Trong những trận giáp chiến liên tục kéo dài 5 tháng rưỡi vào mùa hè và thu năm 1941, Hồng quân Liên Xô đã làm thất bại kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” của phát xít Đức và buộc chúng chuyển sang thế phòng thủ với những tổn thất lớn lao: gần 403.000 quân bị giết, bị thương và bị bắt làm tù binh.
Trận đánh ở cửa ngõ Mátxcơva mùa đông 1941 - 1942 là một trong những sự kiện lịch sử quan trọng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 30-9-1941 phát xít Đức huy động một lực lượng đông đảo gồm 1,8 triệu quân, 1.700 xe tăng, 14.000 đại bác và súng cối, gần 1.000 máy bay chiến đấu đánh vào Mátxcơva.
Mọi tầng lớp dân chúng Mátxcơva cùng nhất loạt đứng lên đánh trả quân xâm lược. Tổn thất của phát xít Đức lên tới gần 400.000 người. Chiến thắng ở Mátxcơva làm thay đổi cán cân lực lượng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai theo hướng có lợi cho các lực lượng Đồng minh chống phát xít và làm cho uy tín của Liên Xô được tăng cao.
Từ giữa năm 1942 đến đầu 1943 những trận đánh ác liệt kéo dài 6 tháng ở Xtalingrát đã làm cho phát xít Đức trở nên khốn quẫn hơn. Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 1/4 tổng số quân địch trên toàn bộ mặt trận Xô - Đức lúc đó: 22 sư đoàn tinh nhuệ bị xóa sổ, 1.700.000 tên địch bị tiêu diệt, 300.000 binh lính và sĩ quan bị bắt làm tù binh. 24.000 khẩu đại bác, 3.500 xe tăng và 4.300 máy bay Đức bị tiêu diệt. Chiến dịch Xtalingrát đánh dấu bước ngoặt quan trọng, làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô cũng như cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Mùa hè năm 1943 diễn ra trận đánh lớn ở vòng cung Cuốcxcơ. Tại đây, hai bên tập trung tới 4 triệu quân, 69.000 đại bác và súng cối, 13.000 xe tăng, 11.000 máy bay. Sau 50 ngày đêm chiến đấu, quân đội Liên Xô đã đập tan cuộc tấn công chiến lược của địch, tiêu diệt nửa triệu quân, 3.000 máy bay, 1.500 xe tăng cùng nhiều vũ khí khác.
Sau chiến dịch Cuốcxcơ, quân đội Liên Xô chuyển sang phản công, giải phóng hoàn toàn đất nước Xô viết, tiến tới biên giới phía Tây. Mãi đến ngày 6-6-1944 khi quân đội phát xít Đức bị đánh đuổi hoàn toàn ra khỏi lãnh thổ Liên Xô và Hồng quân Liên Xô bắt đầu chiến dịch giải phóng lãnh thổ các nước Đông Âu, truy quét phát xít Đức đến tận sào huyệt của chúng thì liên quân Anh - Mỹ mới vội vàng mở “Mặt trận thứ hai” (chiến dịch Ôvéclô) do tướng Đ.Aixenhao chỉ huy, chia sẻ gánh nặng chiến tranh với Liên Xô. Đây là cuộc đổ bộ lớn nhất trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, gồm khoảng 1,5 triệu người để chiến đấu với 560.000 quân phát xít Đức. Trong khi đó, tại mặt trận phía Đông, Liên Xô đã phải huy động tới 4,5 triệu người để chống lại 5,5 triệu quân phát xít Đức.
Cuộc đổ bộ vào Noócmăngđi và các cuộc tiến công sau đó của quân đội Anh - Mỹ vào Pháp và Bỉ cũng là chiến dịch có ý nghĩa lớn về chính trị và chiến lược. Nhưng không thể đánh giá quá cao vai trò của chiến dịch Ôvéclô và ảnh hưởng của nó đối với diễn biến sau này, cũng như đối với việc kết thúc của thế chiến thứ hai được. Điều kiện cần thiết chủ yếu cho thắng lợi của chiến dịch này là phát xít Đức đã mất khả năng chi viện cho chiến trường Tây Âu.
Chúng đã bị suy yếu vì những tổn thất nặng nề trong các trận đánh ở mặt trận phía Đông với quân đội Liên Xô. Chính Sớc-sin, một người chống cộng sản điên cuồng và hết sức thù ghét Liên Xô, cũng đã phải tuyên bố ở hạ nghị viện Anh ngày 28-9-1944 rằng: “Chính quân đội Nga đã rút ruột bộ máy chiến tranh của Đức và hiện nay đang kìm lại trên chiến trường của họ một bộ phận lực lượng địch rất lớn”.
Một số khác không phủ nhận thắng lợi của Liên Xô nhưng lại coi thắng lợi đó là kết quả của những sai lầm về kế hoạch tác chiến của Hítle, hoặc nhờ có viện trợ vũ khí, lương thực... của Anh, Mỹ cho Liên Xô. Thực ra số hàng viện trợ của Anh - Mỹ lúc đó là rất cần thiết và quí giá trong khi Liên Xô gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Song số vũ khí viện trợ đó chỉ chiếm 4% lượng vũ khí do Liên Xô sản xuất, bao gồm: 9.600 khẩu đại bác (2%), 18.700 máy bay (12%), 10.800 xe tăng (l0,4%), 400.000 ô tô, một số đầu máy xe lửa, nhiên liệu, khí tài thông tin, thuốc men, lương thực...
Số viện trợ này rất ít ỏi so với sự đóng góp của Liên Xô nhằm giảm bớt sự hy sinh, mất mát của các nước Đồng minh trong chiến tranh và điều quan trọng là Hồng quân đã chặn đứng quân đội phát xít Đức và bắt đầu tổng phản công từ cuối năm 1941, trước khi Liên Xô nhận được những chuyến hàng viện trợ từ Mỹ, Canada và Anh vào giai đoạn 1943-l945, khi nền công nghiệp của Liên Xô đã sản xuất được nhiều hơn của Đức.
Việc đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức là bằng chứng không thể chối cãi được về sự bất lực của những kẻ xuyên tạc lịch sử. Không thể phủ nhận một sự thật là Quân đội Liên Xô đã giữ vai trò chủ lực, là lực lượng quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu.
Câu 2: Suy nghĩ của bạn về hành động Mỹ ném 2 quả bom Nguyên tử vào 2 thành phố của Nhật Bản và trong chiến tranh TG.
Sự thật là việc thả bom nguyên tử xuống hai thành phố Nhật Bản Hiroshima và Nagasaki của Tổng thống Truman là một trong những quyết định gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Nhiều năm đã trôi qua, cuộc tranh luận không có hồi kết mà chỉ trở nên gay gắt hơn. Ngày càng có nhiều người – cả ở Mỹ và ở nước ngoài – đã lên án cả Tổng thống Truman và nước Mỹ về quyết định này.
Nhưng những sự chỉ trích này lại dựa trên những kiến thức lịch sử hạn chế về cả tình huống mà tổng thống Truman phải đối mặt lẫn cơ sở để đi đến quyết định của ông. Sự phân tích đầy thiếu sót như thế đã được hỗ trợ bởi những thông tin lịch sử không đúng đắn và lệch lạc, chẳng hạn như thông tin được đưa ra bởi các thành viên của trường phái “ngoại giao nguyên tử”. Các nhà sử học này đã cáo buộc một cách đáng hổ thẹn rằng việc Tổng thống Truman tiến hành thả hai quả bom nguyên tử lên một nước Nhật Bản, mà ông này biết là đang trên bờ vực đầu hàng, là để đe dọa Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Lạnh đang dần dần thành hình. Sự giải thích chỉ hợp lý ở bề ngoài này phải bị bác bỏ hoàn toàn.
Tổng thống Truman tìm cách ném bom Hiroshima và Nagasaki, hai mục tiêu quân sự và công nghiệp chủ chốt của quân đội Nhật, nhằm tránh một cuộc xâm chiếm Nhật Bản mà ông Truman biết chắc sẽ trở thành “một Okinawa từ đầu bên này đến đầu bên kia của nước Nhật” (Chú thích: Okinawa là nơi diễn ra một trong các trận chiến đẫm máu nhất tại Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai). Giả định của ông là hoàn toàn chính đáng.
Vào tháng 7/1945, Nhật Bản đã phải chịu các cuộc tấn công tàn phá bởi máy bay B-29 của Mỹ trong nhiều tháng, thủ đô và các thành phố lớn khác đã bị thiệt hại nặng nề, và các đảo chính đã bị hải quân phong tỏa làm cho thực phẩm và nhiên liệu ngày càng khan hiếm. Tổn thất quân sự và dân sự của Nhật Bản lên đến khoảng ba triệu người và trước mắt cuộc chiến dường như không có hồi kết. Bất chấp những điều này, các nhà lãnh đạo Nhật Bản và đặc biệt là quân đội của họ quyết liệt bám lấy quan điểm Ketsu-Go ( “trận chiến quyết định”). Trên thực tế, chính phủ Nhật Bản đã huy động một phần lớn dân số làm thành một lực lượng dân quân quốc gia, lực lượng này sẽ được điều động để bảo vệ các quốc đảo.
Việc khẳng định quyết tâm tiếp tục chiến đấu của Nhật Bản là một sự thật đã được chứng minh, vì ngay cả sau khi hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị thả bom nguyên tử, các tướng lĩnh quân đội Nhật Bản vẫn muốn theo đuổi lựa chọn tuyệt vọng này. Nhưng hai quả bom nguyên tử đã buộc Hoàng đế Hirohito phải hiểu rõ, và hiểu theo cách mà các lãnh đạo quân sự của ông từ chối, rằng việc bảo vệ Nhật khỏi quân đồng minh là vô vọng. Hoàng đế Nhật Bản đã phải sử dụng quyền can thiệp chưa từng có để phá vỡ sự bế tắc trong chính phủ Nhật Bản và cuối cùng ra lệnh đầu hàng. Chính việc thả bom nguyên tử đã khiến Nhật hoàng và phe chủ hoà trong chính phủ Nhật Bản đàm phán để chấm dứt chiến tranh.
Tại tình huống đó, tất cả các kịch bản thay thế khác, khả thi để đảm bảo được chiến thắng của Mỹ đều đi đến một kết luận là số lượng thương vong của Mỹ và quân đồng minh sẽ lớn hơn nhiều lần và thương vong dân sự và quân sự của Nhật Bản sẽ còn cao hơn nhiều. Theo ước tính của quân đội Mỹ vào thời điểm đó, số người bị thiệt mạng có thể lên trên một triệu. Số người chết tại Nhật theo các thống kê chính thức, vì 2 quả bom nguyên tử là khoảng 200.000 người.
Mặc dù khó có thể chấp nhận, nhưng tổn thất của Nhật Bản sẽ lớn hơn rất nhiều nếu không có những quả bom này. Và thương vong tổng thể cũng sẽ bao gồm hàng ngàn tù binh chiến tranh thuộc quân đồng minh, tức là có cả người Mỹ – mà quân Nhật đã lên kế hoạch hành quyết trong trường hợp nước họ bị xâm lược.
Quyết định sử dụng đến bom nguyên tử của Tổng thống Truman cần được cân nhắc trong bối cảnh đó để thấy đó là lựa chọn ít khủng khiếp nhất trong số các phương án có sẵn dành cho ông.
Ngay cả khi suy ngẫm lại về thời điểm đó, xa rời những áp lực mà tổng thống Truman phải đối mặt vào năm 1945 thì những người chỉ trích ông cũng không thể đưa ra được một đề nghị nghiêm túc và thuyết phục về một phương án thay thế khả thi và ít tổn thất hơn.
Sự phán xét của lịch sử là rõ ràng và không mơ hồ: những quả bom nguyên tử đã rút ngắn cuộc chiến, ngăn chặn sự cần thiết phải tiến hành một cuộc chiến xâm lược, cứu sống vô số sinh mạng ở cả hai bên của cuộc xung đột đẫm máu – nhiều hơn nhiều lần số người thiệt mạng do hai quả bom gây ra, và kết thúc sự đối xử tàn bạo của nước Nhật đối với các dân tộc bị xâm lược ở châu Á.
Căn cứ vào các lựa chọn khả thi lúc đó, một con người có đạo đức sẽ làm gì nếu ở vị trí của tổng thống Truman?