Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Hiệp định Paris về Việt Nam hoặc hiệp định Paris 1973 (ở miền Nam còn gọi là Hiệp định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Hiệp định Paris về Việt Nam hoặc hiệp định Paris 1973 (ở miền Nam còn gọi là Hiệp định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
tk cho mk nha
3.Các loại hình giao thông vận tải trên đất nước ta mà em biết là: đường ô tô, đường sắt, đường sông, đường biển, đường hàng không và đường ống.
chỉ bít câu 3 thui
Đường bộ: xe đạp, xe đạp điện,ô tô, xe máy, xe tải, tàu hỏa, ....
Đường thủy: thuyền, tàu thủy, du thuyền, ...
Đường hàng không: máy bay, trực thăng, khinh khí cầu, ...
Cần có phương tiện tàu điện ngầm để tránh những việc khó khăn về giao thông vẫn tải.
CHÚC BN THI TỐT :)))))
I. Lịch Sử
Câu 1: Địa danh nào chỉ căn cứ kháng chiến chống Pháp của ta?
Trả lời: Căn cứ địa Việt Bắc
Câu 2 : Phong trà Xô viết Nghệ Tĩnh diễn ra ở những tình thành nào?
Trả lời: Nghệ An, Hà Tĩnh
Câu 3: Nêu những việc làm đặc trưng của từng nhân vật lịch sử sau để đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước : Trương Định, Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành?
Trả lời: Trương Định: Tập hợp nghĩa quân, lãnh đạo nhân dân Nam kì chống thực dân Pháp
Nguyễn Trường Tộ: Đề ra bản điều trần mong muốn canh tân đất nước
Phan Bội Châu: Tổ chức phong trào Đông Du để đưa thanh niên sang Nhật học tập.
Nguyễn Tất Thành: Ra đi tìm con đường cứu nước, giải phóng nhân dân khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp
Câu 4: Ta quyết định mở chiến dịh biên giới thu - đông năm 1950 nhằm mục đích gì?
Trả lời: - Nhằm giải phóng một phần biên giới Việt - Trung
- Củng cố và mở rộng Căn cứ địa Việt Bắc
- Phá tan âm mưu khoá chặt biên giới Việt - Trung của địch, khai thông đường liên lạc
II. Địa Lý
Câu 1: Nêu đặc điểm nghề thủ công ở nước ta?
Trả lời: Nước ta có rất nhiều nghề thủ công. chủ yếu dựa vào truyền thống, sự khéo léo của người thợ và nguồn nguyên liệu sẵn có. Nghề thủ công của nước ta ngày càng phát triển đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Câu 2: Nêu dặc điểm dân số nước ta?
Trả lời: Nước ta có số dân đứng thứ ba các nước ở Đông Nam Á và là một trong những nước đông dân trên thế giới.
Câu 3: Nêu đặc điểm sông ngòi của nước ta?
Trả lời: Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc, nhưng ít sông lớn. Sông có lượng nước thay đổi theo mùa và có nhiều phù sa.
Câu 4: Ảnh hưởng của khí hậu nước ta đối với đời sống và sản xuất của con người như thế nào?
Trả lời: Khí hậu thuận lợi cho cây cối phát triển, xanh tốt quanh năm. Khí hậu cũng gây ra một số khó khăn: Có năm mưa lớn, gây lũ lụt; có năm ít mưa gây hạn hán; bão có sức tàm phá lớn;...
Câu 5: Ngành lâm nghiệp gồm những hoạt động gì?
Trả lời: Trồng và bảo vệ rừng ; Khai thác gỗ và lâm sản khác.
Câu 6: Kể tên 10 dân tộc trên đất nước Việt Nam?
Kinh, Dao, Thái, Mông, Mèo, Nùng, Ba - na, Ê - đê, Xơ Đăng, Mường.
*Miền Bắc:
-sông Hồng.
-sông Thái Bình.
-sông Kỳ Cùng - Bằng Giang.
*Miền Nam:
-sông Mê Công
-sông Đồng Nai
một số sông lớn ở nước ta là: Sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả, sông Mê Công, sông Đồng Nai,...
Cùng với đường Hồ Chí Minh trên bộ, đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường vận tải bí mật, bất ngờ, có ưu thế về thời gian, hiệu quả và khả năng vận chuyển sâu vào các chiến trường xa, là một sáng tạo độc đáo, đặc sắc, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tài thao lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng, kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc anh hùng của ông cha ta.
Tàu không số vận chuyển hàng hóa, vũ khí trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển. Ảnh tư liệu.
Nhân dịp kỉ niệm 60 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2021), chúng ta cùng ôn lại những dấu mốc huyền thoại của một tuyến đường huyền thoại.
Năm 1961, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng miền Nam, nhu cầu chi viện cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam ngày càng lớn. Tuyến Đường 559 - Đường Trường Sơn gặp nhiều khó khăn, do tuyến phía Đông bị lộ, địch tìm mọi cách ngăn chặn, phải chuyển hướng sang phía Tây Trường Sơn. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125, Vùng 2 Hải quân ngày nay. Đây cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời “đường Hồ Chí Minh trên biển”, một biểu tượng sáng ngời về tài thao lược, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân, một quyết định chiến lược sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Đường Hồ Chí Minh trên biển là tên gọi của tuyến đường vận tải quân sự do Hải quân nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện bí mật trên Biển Đông trong chiến tranh, để vận chuyển vũ khí, cán bộ từ miền Bắc vào chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam, trong kháng chiến chống Mỹ. Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, lòng dũng cảm và khí phách một dân tộc anh hùng; một “huyền thoại có thật”, một “kì tích” của dân tộc ta. Đó không chỉ là phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp cho các chiến trường ven biển miền Nam, mà còn là một sáng tạo chiến lược của Đảng về chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh.
Đường Hồ Chí Minh trên biển ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong khi địch được trang bị các loại vũ khí, phương tiện hiện đại, tối tân, chúng ta chỉ có những loại tàu thuyền nhỏ bé, thô sơ, sử dụng tàu giả dạng vận tải, tàu đánh cá; kết hợp hoạt động bí mật và công khai; tàu có thể xuất phát từ nhiều bến đi (kể cả ở nước ngoài) và cập nhiều bến đến; hướng tàu đi trên nhiều tuyến đường khác nhau, có giai đoạn đi vòng ra biển xa, vùng biển quốc tế; địch phong tỏa đường trong ta đi đường ngoài, địch ngăn chặn đường dài ta đi phân đoạn; địch bám đuôi, ta đi thẳng ra vùng biển quốc tế; khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta đánh trả quyết liệt, có lúc phải phá hủy tàu và hàng để giữ bí mật nhiệm vụ và con đường.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã khẳng định tầm nhìn, bản lĩnh và tài thao lược của Đảng và Bác Hồ, ý chí và khát vọng độc lập, tự do, thống nhất đất nước của toàn dân tộc, chúng ta đã biết dựa vào khả năng to lớn của nhân dân để vượt qua mọi khó khăn, từng bước đánh bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời điểm khó khăn, ác liệt nhất. Nó làm cho đối phương bất ngờ và không thể tưởng tượng được về sự có mặt, sự dũng cảm và tính sáng tạo của con đường, cùng với những con tàu và những con người tham gia trên tuyến đường.
Từ năm 1965, việc vận chuyển chi viện bằng đường biển được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu đề ra phương án đi xa bờ, xác định vị trí tàu bằng thiên văn; gặp rất nhiều khó khăn, nhưng đoàn Tàu không số vẫn quyết tâm thực hiện nhiệm vụ được giao.
Chiến trường miền Nam đêm ngày không ngừng vang lên tiếng súng. Phát hiện việc vận chuyển vũ khí bằng đường biển của ta theo cách đi xa bờ, lẫn vào dòng tàu buôn trên đường biển quốc tế, địch điên cuồng tìm trăm phương nghìn kế để ngăn cản sự chi viện của miền Bắc. Những cuộc đấu trí căng thẳng trên biển diễn ra, đã có những tổn thất, hy sinh nhưng quyết tâm của ta không hề thay đổi. Đường Hồ Chí Minh trên biển ngay từ những chuyến chi viện đầu tiên đã là một huyền thoại. Các con tàu không số tiếp tục chi viện vũ khí, thuốc men vào chiến trường ven biển Nam Trung Bộ, Nam Bộ. Thời gian này địch phong tỏa hết sức gắt gao các tuyến đường trên biển. Chúng đã nhận rõ sự lợi hại của tuyến đường nên dành mọi lực lượng, thiết bị, tàu thuyền, máy bay để chống phá, ngăn chặn các con tàu vận chuyển của ta. Song, Quân chủng Hải quân vẫn xác định phải bằng mọi giá chi viện cao nhất cho miền Nam ruột thịt. Từ bến tàu không số nơi cửa biển Đồ Sơn, những chuyến tàu đêm đêm vẫn bí mật lên đường.
Đài tưởng niệm Bến tàu không số tại Đồ Sơn (Hải Phòn.g)
Sử sách mãi còn ghi, đêm 30 rạng ngày mùng một Tết Mậu Thân (31/1/1968), Tàu 235, thuộc Đoàn tàu không số, do Trung úy Nguyễn Phan Vinh làm thuyền trưởng nhận nhiệm vụ vận chuyển 14 tấn vũ khí, đạn dược chi viện cho miền Nam. Sau nhiều ngày đêm hành quân trên vùng biển quốc tế, đến 18 giờ ngày 29/2/1968, Tàu 235 tới ngang vùng biển Nha Trang thì phát hiện máy bay trinh sát địch lượn vòng quanh tàu. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh nhận định tàu ta đã bị lộ nên cho anh em ngụy trang cẩn thận, chờ đêm tối chuyển hướng vào bờ. Cả tàu chuẩn bị thả hàng sẵn sàng chiến đấu.
Đúng 23 giờ đêm, Tàu 235 đè sóng lướt tới. Khi cách Hòn Hèo khoảng 6 hải lý thì bất ngờ gặp 3 tàu chiến của địch và 4 chiếc khác dàn hàng ngang, triển khai đội hình phục kích thành thế bao vây hòng bắt sống tàu ta. Trước tình hình đó, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đã mưu trí chỉ huy thủy thủ thả khói mù, khôn khéo điều khiển tàu luồn lách qua đội hình tàu địch. Vì không liên lạc với lực lượng bến đón, thuyền trưởng ra lệnh thả hàng xuống biển và khẩn trương cho tàu di chuyển sang vùng biển Ninh Văn để không lộ vị trí thả hàng. Lúc này đã là 1 giờ 30 phút ngày 1/3/1968.
Trên biển, các tàu địch di chuyển khép chặt vòng vây. Trên không, chúng huy động máy bay lên thẳng vũ trang yểm trợ. Cuộc chiến không cân sức diễn ra quyết liệt. Phía trước là núi, phía sau là 7 tàu địch ngăn chặn lối ra, Tàu 235 ở vào tình thế vô cùng khó khăn. Trên trời, máy bay địch thả pháo sáng; đèn pha các tàu địch tập trung chiếu sáng để các loại hỏa lực bắn xối xả. Mặc cho lửa đạn, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh vẫn bình tĩnh chỉ huy thủy thủ vừa kiên cường đánh trả địch, vừa cho tàu chạy sát vào gần bờ hơn. Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, nhiều đồng chí của ta bị thương, máy tàu hỏng nặng, thuyền trưởng bị thương ở đầu. Biết không thể thoát khỏi vòng vây của địch, Nguyễn Phan Vinh hội ý với anh em và ra quyết định hủy tàu để không lọt vào tay địch. Thuyền trưởng cho tất cả anh em bơi vào bờ trước, còn anh và thợ máy Ngô Văn Thứ ở lại chuẩn bị kíp nổ, trực tiếp điểm hỏa hủy tàu, rồi rời tàu.
Đúng 2 giờ sáng, một cột lửa bùng lên kèm theo tiếng nổ dữ dội chấn động cả vùng biển, hất tung một nửa thân Tàu 235 lên triền núi Bà Nam. Sau giây phút hoảng loạn, bọn địch điều thêm máy bay và gọi phi pháo bắn phá, dọn đường cho quân đổ bộ lên bờ hòng bao vây bắt sống thủy thủ Tàu 235. Cuộc chiến đấu trên bộ giữa thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng thợ máy Ngô Văn Thứ với bộ binh địch diễn ra vô cùng ác liệt. Lợi dụng địa hình, địa vật, các anh đã tiêu diệt nhiều tên địch. Cuối cùng, do vết thương ngày càng nặng, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hi sinh.
Người còn sống hôm nay đều ghi nhớ ơn sâu máu xương các anh hùng chiến sĩ. Quân chủng Hải quân luôn cố gắng thực hiện tốt nhất mọi nhiệm vụ để xứng đáng với những hi sinh, những chiến công của các anh hùng liệt sĩ. Ngay như cầu cảng Đồ Sơn, nơi 60 năm trước các chuyến tàu không số nối nhau chuyên chở hàng hóa, vũ khí chi viện cho miền Nam ruột thịt đã trở thành địa điểm lịch sử để hằng ngày chúng ta nhắc nhớ tới chiến công. Hiện nay đã có một tượng đài khá bề thế được dựng lên với tấm biển ghi rõ:
“Bến tàu Không số - Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với những con tàu “Không số” là kỳ tích huyền thoại, thiên anh hùng ca bất hủ, mốc son chói lọi, biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trí tuệ, sự hy sinh, lòng dũng cảm, ý chí độc lập dân tộc và thống nhất đất nước của toàn thể nhân dân Việt Nam”.
Khu tượng đài “Đường Hồ Chí Minh trên biển” là sự nhắc nhở đối với các thế hệ trẻ hôm nay và mai sau phải sống xứng đáng với sự hi sinh cao cả của cha ông, đặc biệt là sự hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của dân tộc mà tiêu biểu là các chiến sĩ trên những con tàu không số huyền thoại.
Năm tháng qua đi, nhưng Đường Hồ Chí Minh trên biển mãi mãi là niềm tự hào của quân đội ta, nhân dân ta, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí sắt đá, quyết tâm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc ta.
Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (ngày 5 tháng 6 năm 1911) là ngày kỷ niệm hàng năm tại Việt Nam ghi nhận sự kiện Hồ Chí Minh lúc đó tên là Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville lên đường sang Pháp với tên gọi Văn Ba hay anh Ba để học hỏi những điều mà Người cho là "tinh hoa và ...
Làng Sen ngày nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh
Gia đình Hồ Chí Minh
- Thân sinh. 1.1 Nguyễn Sinh Sắc. 1.2 Hoàng Thị Loan.
- Các anh chị em. 2.1 Nguyễn Thị Thanh. 2.2 Nguyễn Sinh Khiêm. 2.3 Nguyễn Sinh Nhuận.
- Ông bà 3.1 Nguyễn Sinh Nhậm. 3.2 Hà Thị Hy. ...
- Gia đình riêng. 4.1 Hôn nhân. 4.2 Những người con đỡ đầu.
Quê Bác ở đâu? :Trong đó có người lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc Việt Nam, chính là chủ tịch Hồ Chí Minh. Vị trí: Cách thành phố Vinh chừng 16km, làng Sen thuộc địa phận xã Kim Liên, huyện Nam Đàn là quê gốc của Bác.
Gia đình Bác Hồ gồm:
Thân sinh:Ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị loan
Các anh chị em:
-Nguyễn Sinh Nhuận
-Nguyễn Thị Thanh
-Nguyễn Sinh Khiêm
-Em là Nguyễn Sinh Xin(cho bạn nào chưa biết thì ở làng Sen quê Bác có bàn thờ cả gia đình gồm 8 người bao gồm những người đã nói trên cùng Bác và em là Nguyễn Sinh Xin ở nhà Bác).
hồ sông Đà nha >.<
Hồ Sông Đà