Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Có 4 phương pháp học:
- Học để lấy gốc
- Tiến dần từ cơ bản đến nâng cao
- Học rộng rồi tóm lược lại cho gọn
- Theo điều học mà làm ( học đi đôi với hành)
Cũng 2k5 nè. Học tốt nhé
Về luật bằng – trắc (B – T): chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu ở trong các câu trong bài phải đối thanh:
Sáng | ra | bờ | suối | tối | vào | hang |
T | B | B | T | T | B | B |
Cháo | bẹ | rau | măng | vẫn | sẵn | sàng |
T | T | B | B | T | T | B |
Bàn | đá | chông | chênh | dịch | sử | Đảng |
B | T | B | B | T | T | T |
Cuộc | đời | cách | mạng | thật | là | sang |
T | B | T | T | T | B | B |
a, Mỗi bài thơ có 7 tiếng, số dòng và số chữ có bắt buộc và không thể tùy tiện thêm bớt.
b, Sử dụng kí hiệu bằng trắc cho hai bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác và Đập đá ở Côn Lôn
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
( T-B-B-T/ - T- B- B )
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
( T- T-B-B-T-T-B)
Đã khách không nhà trong bốn biển
( T- T- B- B- B-T-T)
Lại người có tội giữa năm châu
( T- B- T- T-T-B-B)
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
( T- B- B- T-B- B-T)
Miệng cười tan cuộc oán thù
( T- T- B- T- T- B)
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
( B- T- T- T/ B- T-T)
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
( B- B-B- T- T- T- B)
c, Niêm luật của bài thơ:
+ Niêm (dính nhau) tiếng dòng trên tương ứng với dòng dưới đều B
+ Đối: tiếng dòng trên B ứng với tiếng dòng dưới T
d, Những tiếng ở cuối câu luôn hiệp vần với nhau, câu 1- 2- 4- 6- 8
e, Thường ngắt nhịp chẵn lẻ: 4/3 ; 2/2/ 3
Vào dây bạn nhé
http://www.kenhvan.com/phan-h-bai-tho-vao-nha-nguc-quang-dong-cam-tac-cua-phan-boi-chau/
Phan Bội Châu là một nhà yêu nước , nhà cách mạng lớn nhất của dân tộc ta trong 25 năm đầu thế kỉ XX . Phan Bội Châu cũng là một nhà văn , nhà thơ lớn , có sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ . Các tác phẩm của ông bao gồm rất nhiều thể loại , đều thể hiện lòng yêu nước , thương dân tha thiết , khát vọng độc lập tự do và ý chí chiến đấu kiên cường , bền bỉ .
" Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác " là một bài thơ chữ Nôm nằm trong tác phẩm Ngục Trung Thư viết bằng chữ Hán sáng tác năm 1914 , khi Phan Bội Châu bị bắt giam .
Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn bát cú Đường luật . Được chia làm bốn phần : đề , thực , luận , kết .
Hai câu đã thể hiện ngay khẩu khí của bậc anh hùng :
" Vẫn là hào kiệt , vẫn phong lưu ,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù . "
Nhân vật trữ tình đã hiện ra với 1 phong thái đường hoàng , tự tin đến mức ngang tàng , ngạo mạn . Giọng đùa vui , làm tan đi cảm giác của ngườig tù , chỉ thấy một tư thế kiêu ngạo , xem thường nguy hiểm . " Hào kiệt " là người có tài năng , chí khí hơn người bình thường . " Phong lưu " là dáng vẻ lịch sự , trang nhã , biểu lộ một phong thái ung dung , thanh thản . Họ rơi vào cảnh tù ngục mà như người chủ động nghỉ chân ở nơi đất khách xa lạ , trên trặng đường bôn ba sóng gió .
" Đã khách không nhà trong bốn biển ,
Lại người có tội giữa năm châu . "
Hai câu thực đã nói lên cảnh ngộ của một chiến sĩ cách mạng trong cảnh nước mất nhà tan . Phan Bội Châu đã tự nghiệm về thân thế của chính bản thân ông . Một cuộc đời đày sóng gió . Phan Bội Châu từng phiêu bạt khắp nơi . Trên hành trình lưu lạc ấy , ông đã phải trải qua biết bao đắng cay cực khổ vì muốn tìm đường cứu nước , vì yêu nước thương dân mà người chiến sĩ bị xem như một tù nhân bị truy nã khắp nơi . Phiêu bạt giữa nơi đất khách quê xa lạ .
" Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế ,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù . "
" Bủa tay ôm chặt " , " mở miệng cười tan " đã nói lên một tư thế hào hùng , một quyết tâm sắt đá , không có gì lay chuyển được . Sẵn sàng xả thân vì một lý tưởng cách mạng cao cả , cứu nước giúp đời . Nghệ thuật đối làm cho giọng thơ thêm đĩnh đạc , hào hùng với lối nói khoa trương , hào sảng , thể hiện khẩu khí của bậc anh hùng hào kiệt , một lòng theo đuổi sự nghiệp cứu nước, cứu đời , ngạo nghễ cười trước mọi thủ đoạn tàn bạo của kẻ thù . Đó là sự kết tinh cao độ , cảm xúc lãng mạng , hào hùng . Hình ảnh kì vĩ với các động từ gợi tả " ôm chặt , cười tan " đã dựng lên một người anh hùng hào kiệt trong cảnh tù đầy nguy hiểm nhưng vẫn lạc quan , bất khuất .
Bản lĩnh và tư thế khác người của bậc anh hùng yêu nước đã được khẳng định dứt khoát trong hai câu thơ :
" Thân ấy vẫn còn , còn sự nghiệp ,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu . "
Hai câu kết đã khẳng định một niềm tin mạnh mẽ , biểu lộ khí phách hiên ngang , ý chí sắt đá . Tin tưởng vào bản thân : còn sống là còn chiến đấu đến cùng cho lí tưởng vì sự nghiệp chính nghĩa , không sợ bất cứ nguy hiểm nào . Điệp từ " còn " làm tăng thêm sắc thái mạnh mẽ , dứt khoát , tăng ý khẳng định cho lời thơ như một lời thề sắt đá không thay đổi .
Bài thơ toát lên một tinh thần bất khuất , một tư thế vững vàng của bậc trượng phu trong cơn sóng gió . Truyền thống yêu nước , thương dân của dân tộc đang tiếp tục mạch chảy trong tâm huyết của chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu .
Bằng giọng điệu hào hùng có sức lôi cuốn mạnh mẽ , " Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác " đã thể hiện những phẩm chất cao đẹp , phong thái ung dung , đường hoàng và khí phách kiên cường của người chiến sĩ vĩ đại giàu lòng yêu thương dân , hiên ngang , bất khuất , lạc quan vượt lên trên cảnh tù ngục khốc liệt của nhà chí sĩ cách mạng yêu nước Phan Bội Châu .
Câu hỏi 1. Bài thơ thuộc thể thơ gì? Hãy kể tên một số bài thơ cùng thể thơ này mà em đã học.
- Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt (mỗi bài có bốn câu, mỗi câu bảy chữ).
- Một sô bài thơ thuộc thể thơ tứ tuyệt đã học ở lớp 7: Cảnh khuya, Nquyên tiêu (Rằm tháng giêng).
Câu hỏi 2. Nhận xét về giọng điệu chung của bài thơ. Tâm trạng của Bác Hồ ở Pác Bó được biểu hiện như thế nào qua bài thơ? Vì sao Bác cảm thấy cuộc sống gian khổ đó “thật là sang” ?
- Bài thơ tuân thủ chặt chẽ quy tắc và cấu trúc của một bài thơ tứ tuyệt nhưng vẫn toát lên một cảm giác phóng khoáng, sảng khoái. Giọng điệu bài thơ tự nhiên, thoải mái, pha chút hóm hỉnh, vui đùa.
- Hoàn cảnh sinh hoạt của Bác khi ở Pác Bó hết sức khó khăn, gian khổ : ngủ trong hang tối và lạnh, nhiều khi chỉ ăn cháo bẹ rau măng, bàn làm việc là một tảng đá chông chênh. Câu thơ đầu nói về việc ở có giọng điệu thoải mái, vui tươi; có hai vế sóng đôi (sánq ra - tối vào) tạo cảm giác nhịp nhàng, nề nếp làm hiện lên hình ảnh Bác ung dung, hòa điệu cùng nhịp sống của núi rừng. Câu thứ hai nói về cái ãn có nét gì đó vui đùa. Cái ăn thì đầy đủ, dư thừa, luôn có sẵn (vẫn sẵn sàng). Câu thứ ba nói về điều kiện làm việc còn khó khăn, tạm bợ nhưng Bác vẫn cảm thấy thoải mái. Những câu thơ có giọng khẩu khí, nói cho vui, có phần nào khoa trương nhưng niềm vui thích, sự sảng khoái của Bác là rất thật, không chút gượng gạo, “lên gân”.
- Bác cảm thấy cuộc sống gian khổ đó “thật là sang” bởi nhiểu nguyên nhân. Thứ nhất, hoàn cảnh sống ở Pác Bó rất phù hợp với cái “thú lâm tuyền” của Bác : “Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiểu làm bạn với cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu...” (Lời Bác phát biểu với các nhà báo tháng 1 - 1946). Thứ hai, lúc này, Bác đang rất vui vì Bác tin vào thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần. So với niềm vui lớn lao đó thì những gian khổ trong sinh hoạt chẳng có nghĩa lí gì, thậm chí nó còn trở nên sang trọng.
Câu hỏi 3. Qua bài thơ, có thể thấy rõ Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiên nhiên. Nguyễn Trãi đã từng ca ngợi “thú lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài Côn Sơn ca. Hãy cho biết “thú lâm tuyền” ở Nguyên Trãi và ờ Bác Hồ có gì giống và khác nhau.
Bài thơ Côn Sơn ca Nguyễn Trãi :
Côn Sơn suối cháy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn cố đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Trong lèn thông mọc như nêm,
Tha hồ muôn lọng ta xem chốn nằm.
Trong rừng có bóng trúc rám,
Giữa màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.
Về đi, sao chẳng sớm toan.
Nửa đời vướng víu bụi trần làm chi ?
Muôn chung nghìn vạc cần gì,
Cơm rau nước lã đủ tùy phận thôi !...
(Bản dịch trong Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962). Bài thơ trên và bài Tức cảnh Pác Bó đều thể hiện niềm vui “thú lâm tuyền” của chủ thể trữ tình. Nguyễn Trãi tìm đến thú lâm tuyền vì cảm thấy bất lực trước thực tế đời sống, muốn “lánh đục về trong”, an ủi mình bằng lối sống “an bần lạc đạo”. Tuy đó là lối sống thanh cao, khí tiết nhưng vẫn là lối sống tiêu cực của ông. Còn Hồ Chí Minh, sống hòa nhập với núi rừng, sông suối nhưng vẫn giữ được cốt cách của người chiến sĩ cách mạng. Nhân vật trữ tình trong Tức cảnh Pác Bó tuy mang dáng dấp của một ẩn sĩ nhưng thực chất là một chiến sĩ. Câu thơ bàn đá chông chênh dịch sử Đảng thể hiện rõ điểu này. Vần trắc trong ba tiếng dịch sử Đảng làm toát lên vẻ khỏe khoắn, mạnh mẽ, gân guốc góp phần khắc họa đậm nét hình tượng người chiến sĩ cách mạng vừa chân thực, sinh động vừa uy nghi, lồng lộng.
1.Bài thơ thuộc thể thơ gì? Hãy kể tên một số bài thơ cũng thể thơ này mà em đã học.
- Bài thơ thuộc thể thơ tứ tuyệt.
2. Nhận xét về giọng điệu chung của bài thơ.
Đó là giọng sảng khoái, tự nhiên, pha chút vui đùa hóm hỉnh.
Tâm trạng của Bác Hồ ở Pác Bó được thể hiện như thế nào qua bài thơ?
Tâm trạng của Bác vẫn rất lạc quan dù sống trong gian khổ, hơn thế, Bác còn cảm thấy vui thích và thoải mái với cuộc sống nơi rừng núi hoang vu.
Vì sao Bác lại cảm thấy cuộc sống gian khổ đó “thật là sang”?
Vì những gian khổ ấy không làm mờ đi được niềm tin và niềm vui vì thời cơ của cuộc giải phóng đang tới gần. Có được niềm tin ấy thì những gian khổ nhỏ nhoi trong sinh hoạt cá nhân kia có nghĩa lí gì, thậm chí, tất cả đều trở nên sang trọng cả.
3*. Qua bài thơ, có thể thấy rõ, Bác Hồ cảm thấy vui thích, thoải mái khi sống giữa thiên nhiên. Nguyễn Trãi cũng từng ca ngợi “thú lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài Côn Sơn ca. Hãy cho biết “thú lâm tuyền” ở Nguyễn Trãi và ở Bác Hồ có gì giống và khác nhau.
*Giống:
Đều là vui với cái nghèo, giữ tâm hồn trong sạch; đều là một tình cảm thanh cao, một nét đẹp có truyền thống từ xưa.
*Khác:
- Nguyễn Trãi tìm đến thú lâm tuyền vì cảm thấy bất lực trước thực tế đời sống, muốn “lánh đục về trong”, an ủi mình bằng lối sống “an bần lạc đạo”. Tuy đó là lối sống thanh cao, khí tiết nhưng vẫn là lối sống tiêu cực của ông.
- Hồ Chí Minh sống hòa nhập với núi rừng, sông suối nhưng vẫn giữ được cốt cách của người chiến sĩ cách mạng. Nhân vật trữ tình trong Tức cảnh Pác Bó tuy mang dáng dấp của một ẩn sĩ nhưng thực chất là một chiến sĩ.
1. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Có thể kể tên một số bài thơ cùng thể thơ với bài này đã học như: Sông núi nước Nam, Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, Xa ngắm thác núi Lư, Cảnh khuya, Rằm tháng riêng,…
2. Giọng điệu chung của bài thơ là giọng sảng khoái, tự nhiên, hóm hỉnh pha chút vui đùa. Điều đó cho thấy, dù sống trong gian khổ nhưng tâm trạng của Bác vẫn rất lạc quan, hơn thế, Bác còn cảm thấy vui thích và thoải mái với cuộc sống nơi rừng núi hoang vu. Làm cách mạng và được sống hoà hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn của nhà cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh
Những năm tháng sống và làm việc ở Pác Bó, thực tế Bác đã phải trải qua rất nhiều những khó khăn. Thế nhưng những gian khổ ấy, những cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh,…không làm mờ đi được niềm tin và niềm vui vì thời cơ của cuộc giải phóng đang tới gần. Có được niềm tin ấy thì những gian khổ nhỏ nhoi trong sinh hoạt cá nhân kia có nghĩa lí gì, thậm chí, tất cả đều trở nên sang trọng cả. Bài thơ cho thấy cá nhân cách cao khiết của Hồ Chí Minh, cho thấy sự hi sinh thầm lặng của người cho đất nước.
3. Nguyễn Trãi từng ca ngợi “thú lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài Côn sơn ca. Trong bài thơ này, Hồ Chí Minh cũng cho thấy niềm vui thú đó. Thế nhưng “thú lâm tuyền” của Nguyễn Trãi, ấy là cái “thú lâm tuyền” của người ẩn sĩ bất lực trước thực tế xã hội muốn “lánh đục về trong”, tự tìm đến cuộc sống “an bần lạc đạo”. Ở Hồ Chí Minh, cái “thú lâm tuyền” vẫn gắn với con người hành động, con người chiến sĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tuy có dáng vẻ của một ẩn sĩ nhưng thực tế đó lại là một người chiến sĩ đang tận tâm, tận lực vì tự do độc lập của non sông (Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Luật bằng trắc và niêm bài nhàn là một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này nói về tinh thần đạo đức và cách sống của con người. Theo bài thơ, luật bằng trắc là luật công bằng, đúng đắn và chính đáng. Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên mọi người nên tuân thủ luật bằng trắc trong cuộc sống để đạt được sự công bằng và hạnh phúc. Bài nhàn là một hình thức thơ tự do, không ràng buộc về hình thức và ngôn ngữ. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết bài nhàn để thể hiện tâm trạng, suy nghĩ và cảm xúc của mình một cách tự do và thoải mái. Tổng cộng, bài thơ "Luật bằng trắc và niêm bài nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện tinh thần đạo đức và cách sống chính đáng, cùng với sự tự do và thoải mái trong việc thể hiện tâm trạng và suy nghĩ.