K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

12 tháng 11 2018

+ Mở bài

– Ánh trăng là đề tài quen thuộc của thi ca, là cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà thơ

– Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một “Ánh trăng”.

– Với Nguyễn Duy, ánh trăng không chỉ là niềm thơ mà còn được biểu đạt một hàm nghĩa mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng cho quá khứ trong mỗi đời người.

– Đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ.

+ Thân bài.

Những câu đầu tiên của bài thơ tác giả đang hồi ức lại những ngày thơ bé sống ở vùng quê, nơi có những kỷ niệm tuổi thơ trong vắt. Ánh trăng vì thế trong mắt tác giả cũng mang màu sắc trong trẻo, nên thơ.

“Hồi nhỏ sống với rừng

Với sông rồi với biển”

“trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ”

Trong những câu thơ này thể hiện tác giả là người có lối sống giản dị, lớn lên từ những miền quê và có cuộc sống gắn liến với sống biển. Ánh trăng trong kí ức của tác giả mà một màu trong veo, nên thơ của cuộc sống.

“Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa”

– Ánh trăng gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên của những người lính khi sống trong rừng, khi không có đèn không có điện chỉ có ánh trăng soi đường.

-Dọc đường hành quân đi chiến đấu người lính hát cùng ánh trăng, làm thơ cùng ánh trăng, tâm sự cùng ánh trăng. Ánh trăng đã thân thuộc gần gũi nhưng là người thân của tác giả.

+ Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại.

Từ hồi về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vầng trăng đi qua ngõ Như người dưng qua đường

– Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành “người dưng” – người khách qua đường xa lạ


+ Sự thay đổi của hoàn cảnh sống- không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện sống cách biệt

-Tác giả vội vàng “bật của sổ” như thể mời một vị khách quý tới nhà, sợ mình chậm trễ người khách sẽ bỏ về.

– Câu thơ dưng dưng – lạnh lùng – nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Vì những con người trong cuộc sống hiện tại dường như bị giá trị vật chất cuốn mình đi,.Con người quên đi giá trị tinh thần và ngày càng lạnh lùng, thờ ơ với nhau.

– Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ. – Vầng trăng vẫn là một vầng trăng tròn đầy như hồi thơ bé tác giả nhìn thấy nhưng chỉ con người là đã thay đổi.

-Tác giả và vầng trăng như một người bạn tri kỷ, hình ảnh ánh trăng tròn đầy tỏa sáng đã khiến cho chúng ta những con người đang quay quần trong cuộc sống thường nhật phải bừng tỉnh nhìn lại chính mình.

-Tác giả đã vô cùng xúc động khi gặp lại ánh trăng một hình ảnh quen thuộc gắn bó từ khi còn nhỏ.

– Lúc này những câu thơ dường như hối hả hơn khiến cho người đọc cũng cảm thấy nghẹn ngào trong từng câu chữ

-Niềm vui khôn tả tác giả cảm giác mình đang được trở về hồi thơ bé

+ Kết

– Ánh trăng là một bài thơ hay của tác giả Nguyễn Duy nó mang tính triết lý sâu sắc.

-Nó ngầm nhắc nhở chúng ta cần sống chung thủy trước sau như một tránh bị những giá trị vật chất làm lu mờ ý chí.

21 tháng 12 2018

I. Mở bài: giới thiệu về bài thơ Bếp lửa
Ví dụ:
Trong gia đình, thì mỗi gia đình sẽ có những thành viên khác nhau, có những điểm nổi bật khác nhau. Có gia đình làm nông, có gia đình làm giáo viên, có gia đình làm nhân viên hoặc các nghề khác. Trong gia đình bạn có thể ba, mẹ, ông bà, cháu, cậu, chú,…. Mọi người thân trong gia đình là một người bạn không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, mỗi người có thể đối với ta một cách khác nhau, thể hiện tình cảm khác nhau. Một tình cảm rất thiêng liêng được thể hiện qua bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt đó là tình bà cháu.
II. Thân bài: phân tích bài thơ Bếp lửa:
1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc:

  • Tình cảm của bà cháu rất sâu đậm, gắn liền với hình ảnh bếp lửa
  • Hình ảnh bếp lửa rất gần gũi, quen thuộc và thân thương
  • Người bà đã chắc chiu tình cảm của mình qua bếp lưuar

2. Cảm nghĩ về bà và về bếp lửa:
- Hồi tưởng về những kỉ niệm đẹp bên bà:

  • Thời thơ ấu luôn lẻo đẽo theo bà
  • Người luôn mùi khóc
  • Nhem nhuốc vì than củi
  • Cuộc sống nghèo khó những không bao giờ quên

- Hồi tưởng những kỉ niềm bên bà:

  • Hình ảnh cứ quấn quýt bên bà
  • Tám năm hít khói bếp
  • Tình cảm bà cháu rất quấn quyét
  • Sự hi sinh vô bờ của bà dành cho người cháu thân yêu

- Cảm nghĩ về cuộc đời bà:

  • Cuộc đời vất vả, khó khăn
  • Yêu bà hơn

- Nỗi niềm thương nhớ bà:

  • Tình yêu và nhớ bà mãnh liệt trong tâm hồn cháu
  • Dù đi xa những cháu vân xhuownsg về bà

III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về bài thơ bếp lửa
Ví dụ:
Bài thơ bếp lửa như một tình cảm của cháu dành cho bà qua các kí ức của tuổi thơ và niềm thương nhớ bà của tác giả.

11 tháng 10 2018

I. MỞ BÀI.
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay. Các tao nhân mặc khách, các thi sĩ xưa đến với thiên nhiên để hòa mình vào thiên nhiên, gửi gắm tình cảm tâm tư vào mỗi bức tranh ấy. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, thiên nhiên trở thành một nhân vật nói hộ tác giả tâm trạng nhân vật. Hoài Thanh đã có nhận xét thật đúng về nhân vật thiên nhiên trong Truyện Kiều: Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật – một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn thấm đượm tình người. Đoạn trích Cảnh ngày xuân là một trong những đoạn thơ miêu tả thiên nhiên tiêu biểu nhất trong Truyện Kiều.

II. THÂN BÀI

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Đây là đoạn trích ở phần đầu tác phẩm (sau đoạn tả tài sắc của chị em Thuý Kiều). Cơn tai biến đối với gia đình Thuý Kiều chưa xảy ra. Họ đang sống những ngày tháng êm đềm. Nhân tiết Thanh minh, ba chị em đi trảy hội.

Đoạn trích gồm mười tám câu, bốn câu thơ đầu miêu tả cảnh đẹp ngày xuân, tám câu tiếp theo tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh, sáu câu cuối tả cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về.

2. Cảm nhận

Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa…

Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khoắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.

Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: Cỏ non xanh tận chân trời. Sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra tận chân trời khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là vài bông bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. Ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.

Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng. Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của ông.

Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết. Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.

Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:

Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về:

Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.295
Chiến thuật ôn tập Ngữ văn lớp 9
Luyện thi vào 10 bằng sơ đồ tư duy
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang …

Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đều là những từ láy có tính giảm nhẹ.

Tà tà diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; thơ thẩn lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân, thanh thanh vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ nao nao trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ nho nhỏ gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: ngọn tiểu khê – dòng suối nhỏ, phong cảnh thanh thoát, dịp cầu nho nhỏ lại nằm ở cuối ghềnh ở phía xa xa,… Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mơ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra.

2. Bàn luận

Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí, mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).

III. KẾT LUẬN

Cảnh ngày xuân là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế.

Bài văn mẫu Cảm nhận về Bức tranh xuân trong Cảnh ngày xuân trích trong truyện Kiền của Nguyễn Du

Mùa xuân – đề tài muôn thuở của thi ca. Ta bắt gặp mùa xuân trong thơ trung đại với hình ảnh “cỏ xanh như khói bến xuân tươi”, tiếng “cuốc kêu xuân đã muộn” của Nguyễn Trãi. Trong thơ Trần Nhân Tông với “chim hót véo von liễu nở đầy”. Ta cũng không thể không nhớ đến mùa xuân với sắc cỏ xanh hoa lê trắng trong thơ Nguyễn Du. Đoạn thơ tả cảnh mùa xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không dài nhưng đã đem đến cho người đọc những cảm nhận tinh tế và gieo vào lòng người cảm giác phơi phới, tràn trề nhựa sống của mùa xuân. Gợi nhiều hơn tả, đoạn thơ còn là một minh chứng cho việc sử dụng thi pháp đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam, đồng thời là một ví dụ tiêu biểu cho thành công của Truyện Kiều về phương diện nghệ thuật miêu tả.

Đoạn thơ tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh (đầu tháng ba), chị em Kiều đi chơi xuân. Đây là đoạn thơ nằm liền ngay sau đoạn mở đầu giới thiệu gia cảnh họ Vương và tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều. Đoạn gồm mười tám câu thơ được kết cấu theo đúng trình tự thời gian của cuộc du xuân.

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Nguyễn Du luôn có khả năng nắm bắt cái hồn của cảnh vật để rồi sau đó chỉ bằng vài chi tiết đã làm cảnh vật được chạm khắc nổi bật với đúng cái “thần”, cái “hồn” của nó. Chẳng hạn cảnh mùa thu được ông miêu tả:
Long lanh đáy nước in trời.
Thành xây khó biếc non phơi bóng vàng

Với bốn câu thơ gợi tả khung cảnh ngày xuân, Nguyễn Du đã chạm khắc bức tranh toàn cảnh bằng không gian, thời gian và những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân tháng ba: đó là một không gian rộng lớn; chim én; cỏ xanh; hoa lê trắng… Ngay từ câu thơ mở đầu “Ngày xuân con én đưa thoi” nghệ thuật miêu tả ước lệ đã được bộc lộ khá rõ. Trong một câu thơ tác giả vừa tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân “chim én”, vừa nói về thời gian thấm thoắt trôi nhanh như thoi dệt, câu thơ còn như ngụ cả ý tiếc ngày xuân đi quá nhanh. Như vậy, cái ước lệ đâu chỉ có ở hình ảnh chim én nói về mùa xuân mà còn có cả cái thấm thoắt thoi đưa để chỉ sự chuyển biến mau lẹ của thời gian, cái tiếc nuối của con người cũng được gửi cả vào trong ấy. Câu thơ tiếp theo là một cách tính thời gian cụ thể “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, có chín chục ngày xuân mà đã đi qua hơn sáu mươi ngày, để rồi:

“ Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” .

Một câu thơ tuyệt hay và bức tranh tuyệt đẹp. Trong đó tác giả đã sử dụng thủ pháp miêu tả từ toàn cảnh đến cận cảnh, thi pháp đối lập màu sắc làm chủ đạo. Trước hết là bức tranh không gian rộng lớn như mở ra đến vô cùng vô tận.

Cỏ non xanh tận chân trời

Quả là một hình ảnh đầy sức sống có sức gợi tả, nó là cái phông, cái nền cho câu thơ tiếp theo xuất hiện: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Chữ “trắng” đối rất chuẩn với chữ “ xanh” trong câu trên, một vài bông hoa lê trở thành thứ trang sức quí giá để tô điểm cho vẻ đẹp của mùa xuân. Chữ “điểm” làm cho mùa xuân càng như có tâm hồn.

Có lẽ k hông phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du chọn cảnh ngày xuân để nói về quãng thời gian êm đềm, ngắn ngủi của cuộc đời Thuý Kiều. Bởi trong bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông thì mùa xuân vẫn là mùa có sức quyến rũ lòng người nhất. Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tiết trời trong trẻo, mát mẻ… đó còn là mùa diễn ra nhiều lễ hội nhất trong năm và trong những lễ hội ấy, con người là tâm điểm của bức tranh xuân.

Tám câu thơ tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh:

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Như vậy có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: đi viếng mộ và đi chơi xuân ở chốn đồng quê.

Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Nghệ thuật miêu tả ước lệ lại một lần nữa thể hiện rõ nét trong đoạn thơ này. Không khí ngày lễ hội được ví với hàng loạt hình ảnh tượng trưng như: chim yến, chim hoàng anh, như nước, như nêm (chật cứng như nêm). Để tái hiện được không khí náo nức của lễ hội, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ghép là tính từ, danh từ, động từ xuất hiện với tần số dày đặc. Các danh từ ghép (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân…) gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến lễ hội; các động từ ghép (sắm sửa, dập dìu…) gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt; các tính từ ghép (gần xa, nô nức…) diễn tả tâm trạng háo hức của người đi chơi lễ hội. Hình ảnh ẩn dụ “gần xa nô nức yến anh” gợi lên cảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én, chim hoàng anh đang ríu rít… Từ láy “dập dìu” thật gợi hình, gợi cảm, vừa tả được cảnh từng đôi lứa “tài tử – giai nhân” đang du xuân vừa diễn tả được cái nhịp điệu trữ tình thơ mộng trong từng bước chân, từng đoàn xe đang đi trên đường.

Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về được bắt đầu bằng một câu thơ tả sự chuyển đổi của thời gian “Tà tà bóng ngả về tây”. Buổi chiều tà thường gợi về cái gì đó thật buồn, bởi nó báo hiệu một ngày đã tàn. Đang vui vẻ, nô nức là thế, bây giờ đã kết thúc sao tránh khỏi tâm trạng “thơ thẩn” đầy tiếc nuối. Vẫn biết vậy sao ta cứ ám ảnh mãi bởi hình ảnh hai chị em Kiều đang thơ thẩn ra về. Cảnh mùa xuân ở những câu cuối được cảm nhận qua tâm trạng những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ diễn tả sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đặc biệt câu thơ “ nao nao dòng nước uốn quanh “như nhuốm màu tâm trạng. Nó vừa như vẫn còn đọng cái cảm giác bâng khuâng xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm về những tháng ngày không còn hồn nhiên vô tư nữa của Thuý Kiều vì ngay sau đoạn này là đoạn Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên.

Người và cảnh – ý và tình hoà hợp đến độ không còn ranh giới trong những câu thơ tả mùa xuân của Nguyễn Du. Điều đó tạo nên sự thành công và sức hấp dẫn cho đoạn thơ đồng thời cho cả tác phẩm Truyện Kiều. Cùng với bức hoạ ba mùa: hạ, thu, đông, cảnh mùa xuân tạo nên bộ tứ bình bằng ngôn ngữ văn chương tuyệt vời nhất trong văn học trung đại và trong văn học dân tộc.

16 tháng 3 2019

+ Mở bài:

– Giới thiệu qua tác giả và tác phẩm: Nhà thơ Y Phương là một nhà thơ đặc trưng cho người dân tộc, thơ ông là tiếng nói được phát từ sâu thẳm trái tim, vừa gần gũi, giản dị nhưng cũng chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.

– Bài thơ “Nói với con” là một tác phẩm hay của Y Phương nói lên tình cảm thiêng liêng giữa cha và con. Một thứ tình cảm cao quý đáng nâng niu trân trọng.

– Bài thơ giống như lời chia sẻ, trò chuyện của một người đi trước với người đi sau, của một người cha dành cho đứa con máu mủ của mình, những kỷ niệm khó quên.

+ Thân bài:

Ngay từ những câu đầu tiên lời thơ đã giống như một lời tự sự:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười

– Một đứa trẻ khi ngày từ khi được hình thành lên từ trong bụng mẹ đã mang rất nhiều tâm sự, yêu thương, bao bọc của những người thân yêu, của cha mẹ.

– Mở rộng lời bài hát “Nhật ký của mẹ” do nhạc sĩ Nguyễn Văn Chúng sáng tác có những câu sau: “Bao ngày mẹ ngóng, bao ngày mẹ trông, bao ngày mẹ mong con chào đời…” Đó chính là nỗi lòng yêu thương của bậc làm cha, làm mẹ dành cho hài nhi bé bóng của mình.

– Hình ảnh một em bé chập chững biết đi những bước chân đầu tiên trên đường đời luôn được sự cổ vũ động viên từ những người thương yêu chính là cha mẹ.

– Trong những câu thơ tiếp theo tác giả lại gieo vào lòng người đọc những tình cảm thân thuộc, tình cảm đồng bào, tình làng nghĩa xóm đầy quý mến, trân trọng.

Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời

– Trong những câu thơ này tác giải đã kể về những kỷ niệm, những cánh rừng đầy hoa, những con đường thân thuộc gần gũi, giản dị, nhưng sâu sắc chứa đựng biết bao tình nghĩa

– Tác giả muốn qua những câu thơ này để gợi nhớ cho con phải biết yêu thương xóm làng, yêu thương những con người gắn bó với mình, những người tuy không cùng chúng giòng máu nhưng lại thân thiết hơn cả ruột thịt.

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

– Tình cảm người cha muốn gửi tới con dù cuộc sống có nhiều khó khăn, vất vả, nhưng những con người nơi đây luôn tràn đầy nhiệt huyết.

– Theo tác giả Y Phương muốn nhắn nhủ tới con mình về những chặng đường phía trước.

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

– Những câu thơ đầy tình nghĩa tác giả răn dậy con mình không được quên gôc rễ nguồn cội.

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chằng mấy ai nhỏ bé đâu con

– Trong hai câu thơ này tác giả muốn truyền cho người con của mình có thêm lòng tin sức mạnh vào cuộc sống.

– Trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm Pháp và Mỹ rất nhiều người đồng bào dân tộc chính là nơi nuôi quân, chiến đấu vô cùng anh dũng.

– Mở rộng trong thời kỳ những năm bác hồ Cao Bằng lập căn cứ điểm cách mạng thì chính đồng bào dân tộc là những người đã trợ giúp các anh bộ đội cụ Hồ rất tích cực.

+ Kết

– Bài thơ “Nói với con” là một bài thơ mang những lời tâm sự, chia sẻ, gửi gắm của một người cha tới người con yêu thương của mình. Những lời dạy sâu sắc về tình nghĩa, tình người, về ý chí trên đường đời.

– Bài thơ nhẹ nhàng, chân thật, như chính nỗi lòng của tác giả đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó phai.

16 tháng 3 2019

+ Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Y Phương:

– Tác giả Y Phương là một nhà thơ dân tộc sinh ra ở vùng đất nổi tiếng có truyền thống cách mạng Cao Bằng.

– Giới thiệu tác phẩm "Nói với con" bài thơ “Nói với con” của tác giả vẫn luôn là bài thơ đặc sắc nhất gợi cảm nhiều nhất.

+ Thân bài:

Khái quát nội dung của bài thơ là gì? Xuyên suốt bài thơ là nguồn cảm hứng, tình cảm thiêng liêng tình phụ tử, còn song song với tình cảm yêu quê hương đất nước. Bài thơ cho ta thấy cái nhìn nhân văn, cao cả của tác giả qua cách giáo dục con mình.

Bút pháp nghệ thuật của tác giả? Tác giả Y Phương đã thành công khi sử dụng những ngôn ngữ mộc mạc giản dị, nhưng có sức gợi hơn bất kỳ một thủ pháp nghệ thuật cao siêu nào. Những lời thơ của tác giả cũng như chính cái bụng, con người tác giả cũng giống như bao con người dân tộc khác sống ngay thẳng, kiên trung, kiên cường và gắn bó với núi non quê hương đất nước. Trong khổ thơ đầu tiên Y Phương viết:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói,
Hai bước tới tiếng cười

– Hình ảnh gia đình trong khổ thơ này có ý nghĩa gì? Tác giả Y Phương đã vẽ ra một ngôi nhà hạnh phúc nhất, nơi mà đứa trẻ sinh ra được nhận đầy đủ tình yêu thương của người cha, người mẹ. Mái ấm gia đình là chiếc nôi đầu tiên mà một em bé cần có. Chiếc nôi này sẽ chấp cánh cho con những giấc ngủ ngon, với những ước mơ đẹp, nuôi dưỡng tâm hồn con khi trưởng thành.

Tác giả muốn nhắn nhủ tới người con của mình điều gì trong khổ thơ này? Trong khổ thơ thứ hai tác giả bắt đầu dạy con mình những bài học đầu tiên về truyền thống của quê hương mình, gợi cho con về tình yêu sự gắn bó với tổ tiên, đồng bào:

Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát

Phân tích giá trị nhân văn trong những câu thơ của tác giả? Tác giả muốn con không được quên những tinh hoa truyền thống lâu đời của những người dân tộc. Nó chính là bản sắc văn hóa, là tiếng nói riêng của mỗi vùng miền, nên con phải giữ lấy, nhớ lấy và đừng bao giờ đánh mất nghe con:

– Tác giả gợi nhớ cho con mình về những kỷ niệm ngọt ngào, về cha mẹ, có cha mẹ thì mới có con hôm nay. Tác giả muốn con mình hãy nhớ ơn sinh thành dưỡng dục, nhớ ân nghĩa tình làng xóm. Cha mẹ nào cũng muốn con cái mình hãy sống xứng đáng với những truyền thống tốt đẹp mà dân làng tổ tiên ban tặng. Muốn con mình sau này sẽ có ích có sự đóng góp cho sự phát triển của quê hương, dân tộc mình.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đổi
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc

Tác giả muốn dạy con mình điều gì? Trong những câu thơ này tác giả Y Phương đã dạy con mình cách sống hiên ngang, kiên cường, vượt lên trên số phận. Trong đường đời nhiều gập ghềnh sỏi đá, nhiều cám dỗ, khiến con vấp ngã trong những lúc như vậy tác giả muốn con mình hãy bền lòng, vững chí kiên cường anh dũng bước qua, đứng lên để trưởng thành hơn, để xứng đáng với truyền thống lâu đời mà người dân quê mình vẫn có.

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục

-Phân tích tính nghệ thuật và giá trị nhân văn trong những câu thơ của tác giả? Trong những câu thơ trên giọng điệu tha thiết, nhưng lại chất chứa sự uy nghi quyền lực tác giả muốn răn dạy cho con. Tác giả là một người cha muốn khuyên nhủ con trai mình những điều sâu sắc nhất về giá trị làm người, giá trị đạo đức, những chuẩn mực xã hội mà con cần phải nhớ khi trưởng thành.

+ Kết

– Nêu lên cảm nghĩ của bản thân về bà thơ?

-Bài thơ “Nói với con” đi vào trong lòng người đọc bởi sự dịu dàng, nhưng nhiều triết lý sâu sắc, bởi tình yêu âm thầm nhưng mãnh liệt của tình cha dành cho con.

8 tháng 11 2018

I. Mở bài: giới thiệu về bài thơ đoàn thuyền đánh cá
Ví dụ:
Huy Cận là một nhà thơ lớn và nổi tiếng trong phong trào thơ mới của Việt Nam ta, ông đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Một trong những tác phẩm được cho là tác phẩm đặc sắc nhất của ông là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ thể hiện cảnh đoàn thuyền đánh cá của người dân vùng biển, những khó khăn, nhọc nhằn và niềm vui sướng của người dân làng chai.
II. Thân bài: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận
1. Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng của người đi biển:

  • Đoàn thuyền ra khơi vào buổi đêm
  • Cảnh đoàn thuyền ra khơi trong đêm tối nhưng hình ảnh hết sức gần gũi và thân thương
  • Con người ra khơi rất háo hức, lạc quan và niềm hi vọng mới, hi vọng về ngày mai sẽ được nhiều cá

2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:

  • Cảnh không gian mênh mông, rộng lớn nhưng đoàn thuyền cũng lớn lao và hùng vĩ không kém
  • Đánh cá giống như một trận chiến hết sức oanh liệt và hào hùng
  • Đoàn thuyền giữa biển khơi rộng lớn hết sức hào hùng và oai hùng
  • Niềm hăng hái và mê say của những người dân trong việc đánh bắt cá

3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá quay trở về:

  • Sự nhịp nhàng và đồng bộ của đoàn thuyền
  • Những tiếng háy như sự hối thúc và thể hiện sự chiến thắng sau một đêm làm việc mệt nhọc
  • Cảnh tượng thiên nhiên vô cùng hùng vĩ, con người cũng trở nên oai hùng

III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về Doàn thuyền đánh cá
Ví dụ:
Qua bài thuyền đánh ca ta cảm nhận được sự hào hùng của thiên nhiên và sức mạnh của con người, chống chọi với thiên nhiên để mưu sinh và sinh tồn trong xã hội.
Trên đây là Hướng dẫn lập dàn ý đề bài “Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn. hi vọng qua bài lập dàn ý bạn đã có được những sự tham khảo để làm văn tốt hơn.

Chúc các bạn thành công, học tập tốt !